Viêm nội tâm mạc là một căn bệnh nhiễm khuẩn hay xảy ra khi vi khuẩn đi vào trong máu, chạy vào nội mạc cơ tim và những van tim bị tổn thương. Nếu mà không chữa trị, thì viêm nội tâm mạc có thể gây phá hủy van tim và dẫn tới những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.

Viêm nội tâm mạc có thể phát triển từ từ hay đột ngột, tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra nhiễm khuẩn và có vấn đề về tim. Mặt khác, không phải tất cả những vi khuẩn khi vào máu đều gây nên viêm nội tâm mạc mà chỉ các vi khuẩn có khả năng gắn vào nội mạc cơ tim và van tim bị tổn thương thì mới có thể gây bệnh này.

dinhduonghoc.com - viem noi tam mac

Do đó, người bệnh thường có các triệu chứng sốt, sốt âm ỉ kéo dài, người ớn lạnh, mệt mỏi, đau nhức khớp xương và cơ bắp kèm theo những biểu hiện khác là ăn không ngon, giảm cân, đau đầu, đau lưng, khó thở… khiến nhiều bệnh nhân chủ quan nên bệnh thường được phát hiện muộn gây tỷ lệ tử vong cao.

Ở giai đoạn muộn, người bệnh có những biểu hiện phù chân hay bụng, tái da đi tiểu kèm theo có máu, đau ở lá lách. Các nút đỏ của Osler, những điểm dưới da của các ngón tay và xuất hiện những đốm xuất huyết nhỏ màu tím hay đốm đỏ trên da, lòng trắng mắt hay bên trong miệng. Những điểm dưới da của các ngón tay và xuất hiện những đốm xuất huyết nhỏ màu tím hay đốm đỏ trên da… là các triệu chứng của viêm nội tâm mạc.

Ai dễ mắc?

Bệnh thường hiếm xảy ra ở những người có trái tim khỏe mạnh. Bệnh thường gặp  ở những người có tiền sử về bệnh tim trước đó (đã được phát hiện từ trước hoặc vẫn chưa được phát hiện). Những bệnh tim thường dẫn đến viêm nội tâm mạc gồm: Tổn thương van tim do thấp tim hay do thoái hóa van tim; sa van hai lá; một số bệnh tim bẩm sinh (như thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch hay thường gặp ở các bệnh nhân đã từng phẫu thuật van tim trước đó.


Biến chứng nguy hiểm

Viêm nội tâm mạc có thể gây ra nhiều biến chứng như: Khi phát hiện muộn hay người bệnh không tuân thủ quá trình chữa trị sẽ khiến cho nhiễm khuẩn trong các bộ phận khác của cơ thể. Khi đó viêm nội tâm mạc có thể gây ra phát triển áp-xe ở những bộ phận khác của cơ thể, bao gồm não, lá lách, thận hay gan.

Áp-xe có thể phát triển trong cơ tim gây ra tình trạng nhịp tim thất thường. Nếu không chữa trị, viêm nội tâm mạc có thể làm hỏng van tim và vĩnh viễn tiêu diệt lớp lót bên trong trái tim (màng trong tim). Điều này có thể làm cho trái tim làm việc nhiều hơn để bơm máu, cuối cùng gây ra suy tim, một tình trạng mạn tính rất dễ bị tử vong.

Nhưng nguy hiểm hơn cả vẫn là biến chứng đột quỵ và tổn thương cơ quan. Trong viêm nội tâm mạc, những cụm vi khuẩn và mảnh vỡ tế bào hình thành trong tim. Những khối có thể phá vỡ và di chuyển đến não, phổi, những cơ quan bụng, thận hay tứ chi. Điều này có thể gây nên các vấn đề khác nhau, bao gồm đột quỵ hay thiệt hại cho những cơ quan khác hay mô.

dinhduonghoc.com - viem noi tam mac

Chẩn đoán và chữa trị

Đối với bệnh nhân trong nhóm nguy cơ cao sau khi khám lâm sàng, nghe tim có triệu chứng nghi ngờ, những bác sĩ có thể sẽ yêu cầu làm xét nghiệm để chẩn đoán bệnh chính xác như: xét nghiệm máu, điện tâm đồ (ECG), chụp Xquang, cắt lớp (CT scan) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI). Tùy từng trường hợp và mức độ tổn thương, những bác sĩ có thể chỉ định dùng kháng sinh hoặc phẫu thuật.

Đối với những bệnh nhân có biến chứng như: suy tim nặng thêm; tình trạng nhiễm khuẩn không khống chế được bằng kháng sinh; tổn thương van nặng nề, tổn thương nhiễm khuẩn lan rộng (hình thành nên các áp xe ở tim), huyết khối tái đi tái lại, viêm nội tâm mạc trên van tim nhân tạo… cần phải phẫu thuật để  có thể được thay van tim bị tổn thương bằng van nhân tạo.

Phòng bệnh vẫn là cách tốt nhất

Nếu phát triển những dấu hiệu nghi ngờ hay triệu chứng của viêm nội tâm mạc, cần đến ngay các cơ sở y tế để được những bác sĩ tư vấn và chữa trị, nhất là các bệnh nhân trong nhóm nguy cơ cao mắc các bệnh về tim, khuyết tật tim.

Để phòng viêm nội tâm mạc, những người có yếu tố nguy cơ cần phải giữ vệ sinh răng miệng tốt. Cần phải chải, xỉa răng và nướu răng đúng cách, thường xuyên, kiểm tra răng miệng và sức khỏe định kỳ. Nếu có can thiệp về y tế như: lấy cao răng, thủ thuật tai mũi họng… cần phải thông báo cho các bác sĩ về tình trạng tiền sử bệnh tật nếu có.

Tránh xâu khuyên cơ thể hay hình xăm để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn. Nếu có những vết thương chảy máu, hở da cần chăm sóc y tế đúng cách, không đắp những loại lá theo sự mách bảo,  rất dễ bị nhiễm khuẩn.

Viêm nội tâm mạc thường hay xảy ra khi bệnh nhân bị viêm nhiễm trong cơ thể. Khi đó, vi khuẩn vào máu đến tim và bám vào van tim bất thường hay mô tim bị tổn thương. Tuy nhiên, đôi khi thủ phạm là một trong nhiều loại vi khuẩn hay sống trong miệng, họng hoặc phần khác của cơ thể, khi cơ thể giảm sức đề kháng, nhân cơ hội viêm nhiễm như: đánh răng, nhai thức ăn trong khi viêm nhiễm răng miệng hay sâu răng nên vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào đường máu và gây bệnh. Vì vậy, người bệnh thường chủ quan nên nhập viện trong tình trạng nguy kịch làm cho việc điều trị khó khăn hơn và hay bị tử vong.