Gân (Dây Chằng) - Những triệu chứng nhận biết bệnh viêm gân
Vì sao gân lại bị viêm?
Người ta bị viêm gân trong những trường hợp: viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, rối loạn chuyển hóa; Thoái hóa gân do tuổi già; hay do những hoạt động quá mức do nghề nghiệp, chấn thương trực tiếp, co cơ quá mức, đột ngột, cử động sai tư thế, vi chấn thương…
Mắc bệnh viêm gân khi nào?
Đau ở vị trí gân bị tổn thương, đau khu trú tại chỗ, ít lan xa, đau kéo dài liên tục cả ngày và đêm, đau tăng lên khi người bệnh cử động. Vùng bị tổn thương có thể đỏ và sưng nề, ấn tại chỗ rất đau, làm những động tác co cơ chủ động của gân làm đau tăng lên. Một số viêm gân cụ thể, được nhận biết tùy theo biểu hiện mà viêm gân gây ra như sau:
Viêm gân bám tận của cơ bám vào đầu xương: Một số gân quanh vùng bám tận có những túi hoạt dịch, với chức năng làm đệm, ngăn cách gân với nền xương và những gân lân cận khác. Tổn thương ở phần màng ngoài xương, gọi là viêm cốt mạc ngoài gân, tổn thương ở phần thanh dịch thì được gọi là viêm túi thanh dịch, trong thực tế thì rất khó phân biệt hai loại viêm này nên gọi chung là viêm gân bám tận.
Viêm bao gân: Một số gân dài khi đi qua những vị trí đặc biệt, nhất là khi gân đổi hướng, có một bao hoạt dịch bọc lấy, có chức năng như một ròng rọc cố định đường đi của gân. Bao gân có cấu trúc giống như màng hoạt dịch, ở giữa có dịch nhầy, nếu bị tổn thương thì sẽ gây cản trở hoạt động của gân.
Viêm bao gân vùng mỏm châm quay: còn được gọi là bệnh De Quervain: Về giải phẫu, vùng mỏm châm quay có một bao hoạt dịch bọc chung hai gân của cơ dạng dài và dạng ngắn ngón tay cái. Bệnh gây sưng và đau bờ ngoài mỏm châm quay, đau tăng lên khi người bệnh cử động ngón cái, nhất là khi làm động tác duỗi. Khám thấy vùng mỏm châm quay hơi nề, ấn vào đau, chống lại động tác duỗi ngón cái. Bệnh thường gặp ở phụ nữ làm các công việc bằng tay nhiều như giặt, xách, dệt, đan…
Hội chứng đường hầm cổ tay: Vùng cổ tay phía trước có những gân gấp chung những ngón tay và gấp riêng ngón cái chui qua một đường hầm mà phía sau là khối xương cổ tay, phía trước là một vòng xơ. Bao bọc hai gân là hai bao hoạt dịch, ở chính giữa đường hầm là dây thần kinh giữa. Khi đường hầm bị viêm thì nó sẽ chèn ép dây thần kinh giữa gây nên hội chứng đường hầm cổ tay rất giống với các triệu chứng chèn ép rễ thần kinh ở lỗ tiếp hợp cột sống cổ.
Hội chứng gồm những biểu hiện: dị cảm, tê bì như kim châm, đau buốt, hạn chế vận động và rối loạn dinh dưỡng ở bàn tay và những ngón tay trong khu vực chi phối của thần kinh giữa như tê và đau buốt ở đầu những ngón tay 1,2,3. Tê và đau ở gan bàn tay, đau tăng lên khi về ban đêm. Khi khám thì có thể thấy vùng cổ tay hơi sưng.
Cảm giác nông những ngón tay 1,2,3 giảm rõ rệt. Nếu duỗi bàn tay hết cỡ, sử dụng búa phản xạ gõ vào cổ tay thấy tê và đau những ngón 1,2,3. Sử dụng dây garo quấn phía trên cổ tay, sau thời gian ngắn thấy đau và tê các ngón tay 1,2,3. Bệnh thường xảy ra sau viêm khớp dạng thấp (thường hay gặp cả hai bên), chấn thương vùng cổ tay, một số nghề nghiệp phải dùng nhiều cổ tay như ép, vặn, quay…
Ngón tay lò xo: Đặc điểm cấu tạo giải phẫu là gân gấp những ngón tay đi từ bàn tay vào ngón thường chui qua những vòng dây chằng để cố định đường đi. Nếu như những dây chằng này bị viêm hoặc gân gấp bị viêm nổi cục thì di động của gân gấp sẽ bị cản trở, làm người bệnh khó duỗi ngón tay, lúc đầu phải cố gắng mới bật ra được giống như lò xo, về sau thì không tự bật ra được mà phải cần có sự trợ giúp.
Viêm gân gót Achille: Hay xảy ra sau khi mắc bệnh viêm khớp dạng thấp, chủ yếu là do bàn chân phải vận động quá mức. Dấu hiệu sưng đau vùng gót chân, gân gót sưng rõ, sờ có thể thấy nổi cục, ấn vào đau, khi làm động tác gấp duỗi bàn chân có lực cản thì đau sẽ tăng.
Những phương pháp chữa trị
Điều trị nội khoa: Tại vị trí đau xoa những loại thuốc mỡ nhóm non-steroid như methyl salicilat, profenid, voltaren. Trong trường hợp nặng thì có thể tiêm vào bao gân hydrocortisol. Những thuốc uống thì có hiệu quả thấp hơn.
Phẫu thuật nếu gân bị dính làm cản trở vận động, giải phóng dính trong hội chứng đường hầm cổ tay, ngón tay lò xo.
Những phương pháp vật lý trị liệu: Nhiệt nóng như sử dụng paraffin, túi chườm, hồng ngoại, sóng ngắn, điện di novocain hoặc salicilat tại chỗ.
Để có thể phòng ngừa bệnh thì cần phải chữa trị tích cực bệnh viêm khớp dạng thấp. Khởi động tốt những khớp trước khi vận động. Cân hạn chế những chấn thương tác động lên vùng cổ tay, gót chân, xử lý tốt những trường hợp bị bong gân do chấn thương, do lao động…