Bàng quang - Sỏi tiết niệu là gì?
Tuổi mắc bệnh thường là từ 30 - 55, nhưng cũng có thể gặp ở trẻ em (sỏi bàng quang). Tại những nước công nghiệp phát triển, sỏi Acide Urique có chiều hướng thấy nhiều hơn ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, sỏi Amoni-Magié- Phosphat (Struvit) chiếm một tỷ lệ cao hơn. Chế độ ăn uống không hợp lý (quá nhiều đạm, Hydrat Carbon, Natri, Oxalat), nhiễm khuẩn tiết niệu hay sống ở vùng nóng, vùng nhiệt đới,... là các yếu tố thuận lợi để bệnh sỏi thận tiết niệu dễ phát sinh. Những loại sỏi Calci thường là sỏi cản quang, còn sỏi Urat và Cystin thường không cản quang.
Theo tác giả Glenn. H. Pneminger tỷ lệ mắc bệnh sỏi thận tiết niệu trên thế giới vào khoảng 3% dân số.
Sỏi tiết niệu - Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
Sỏi niệu có liên quan khá mật thiết tới tình trạng khí hậu và thời tiết nơi sinh sống: khi khí hậu trở nên nóng bức, mồ hôi ra nhiều và nước tiểu bị cô đặc làm cho những tinh thể muối trong nước tiểu bị bão hòa và dễ bị kết tủa tạo sỏi trong thận hay bàng quang.
Nguyên nhân gây nên bệnh sỏi niệu có liên quan mật thiết tới nghề nghiệp của bệnh nhân: một số người làm việc ở môi trường nắng nóng như thợ luyện kim, công nhân xây dựng, thủy thủ, những người làm việc trí óc căng thẳng như bác sĩ, nhân viên văn phòng... dễ bị mắc bệnh hơn những người làm nghề lao động phổ thông.
Cấu trúc của sỏi
Bowman và Meckel đã nghiên cứu sỏi niệu và nhận thấy viên sỏi có một tính chất đặc thù gồm hai yếu tố: Chất Mucoproteine, có công dụng như chất keo kết dính những tinh thể với nhau để tạo sỏi. Những tinh thể của những chất bình thường được hòa tan trong nước tiểu, chủ yếu là Calci và Oxalat. Bên cạnh các chất hay gặp này còn có chất Phosphat, Magié, Urat, Cystine.
Vai trò của Mucoprotein trong cơ chế tạo sỏi hiện nay vẫn còn được biết rất ít. Có thể nói rằng khi nước tiểu bị cô đặc hay khi pH của nước tiểu thay đổi, thì những chất hòa tan trong nước tiểu sẽ kết tinh lại thành những tinh thể, các tinh thể sẽ bị loại trừ theo dòng nước tiểu. Cần phải có chất Mucoproteine thì những tinh thể mới liên kết lại với nhau để tạo ra viên sỏi. Vì vậy nhiều trường hợp khi thử nước tiểu, thấy có nhiều tinh thể Oxalate hay Phosphate nhưng bệnh nhân không có sỏi thận tiết niệu.
Điều kiện thuận lợi để phát sinh ra sỏi
Điều kiện hay xảy ra nhất là sự cô đặc quá mức của nước tiểu. Trong điều kiện bình thường, nếu có hai điều kiện sau đây thì những tinh thể hòa tan có thể lắng đọng được:
Dung dịch được để yên tĩnh, không bị khuấy động trong một thời gian dài.
Dung dịch có chứa đựng các vật lạ như sợi chỉ, xác tế bào, vi khuẩn,... thì vật này có thể trở thành nhân để những tinh thể đọng xung quanh để tạo sỏi. Ngoài ra, khi dung dịch được cô đặc quá biên độ hòa tan trên ngưỡng bão hòa thì sẽ có sự kết tinh của những chất hòa tan. Sự thay đổi của pH nước tiểu sẽ làm cho một vài chất hòa tan dễ kết tinh lại cụ thể, dưới tác dụng của một vài chủng loại vi trùng (như Proteus Mirabilis) có tiết ra men uréase làm phân hủy urée thành amoniaque, nước tiểu sẽ bị kiềm hóa (pH> 6,5) và như vậy, chất Photsphate - Magié sẽ kết tinh lại. Ngược lại nếu pH nước tiểu trở nên acid (pH< 6) thì sẽ là điều kiện thuận lợi cho urat kết tinh lại.
Các loại sỏi niệu thường gặp
Sỏi calcium:
Chiếm tỷ lệ từ 80 - 90 % những trường hợp. Các tác nhân làm tăng nồng độ calci trong nước tiểu là:
Cường tuyến giáp cận giáp.
Gãy xương lớn và bất động lâu ngày.
Dùng nhiều Vitamin D và Corticoid.
Di căn của ung thư qua xương, gây phá hủy xương.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp có tăng nồng độ calci trong nước tiểu mà không tìm thấy nguyên nhân, thấy trong 40-60% trường hợp. Ngoài ra cũng có thể có nồng độ calci trong nước tiểu cao nhưng nồng độ Calci trong máu vẫn bình thường. Nồng độ calci cao trong nước tiểu không phải là yếu tố quyết định để kết thành sỏi niệu, mà nó chỉ là yếu tố thuận lợi.
Sỏi oxalat:
Chiếm tỷ lệ cao ở những nước nhiệt đới như nước ta, oxalat hay kết hợp với calci để tạo nên sỏi oxalat calci.
Sỏi phosphat:
Loại sỏi phosphat hay gặp là loại amoni-magné- phosphat, chiếm khoảng 5-15% trường hợp, có kích thước to, hình san hô, cản quang, hình thành bởi nhiễm khuẩn, đặc biệt là do lọai vi khuẩn proteus. Vi khuẩn protéus có men uréase làm phân hủy urée thành amoniaque, vì vậy nước tiểu sẽ bị kiềm hóa, nếu pH nước tiểu trên 7,0 thì phosphat sẽ kết tủa.
Sỏi acid uric:
Acid uric dễ tan trong môi trường kiềm và dễ kết tinh trong môi trường acid, khi pH nước tiểu dưới 6. Nguyên nhân của nó thường là:
Lượng Acid uric được bài tiết quá nhiều trong nước tiểu.
Nước tiểu bị cô đặc quá nhiều trong trường hợp mất nước do đổ mồ hôi khi làm việc ở môi trường nóng bức. Sỏi acid uric dễ xuất hiện khi chuyển hóa chất purine tăng trong cơ thể. Những tác nhân có thể làm tăng chuyển hoá purine:
Dùng nhiều thức ăn có chứa nhiều chất purine như lòng heo, lòng bò, thịt cá khô, nấm. Bệnh Gút (Goutte). Phân hủy các khối ung thư khi dùng thuốc hóa trị liệu.
Sỏi Cystin:
Được tạo thành do một khuyết tật của việc tái hấp thu ở ống thận của chất Xystin tương đối ít gặp ở nước ta. Sỏi Cystin không cản quang.
Lý thuyết hình thành sỏi
Cho tận bây giờ, vẫn chưa có một cơ chế hoàn toàn đầy đủ để giải thích cho việc hình thành và phát triển của những viên sỏi trong hệ thận tiết niệu. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, nhưng những giả thuyết đó cũng không giải thích được hết tất cả những trường hợp hình thành sỏi. Vì thế , việc hình thành sỏi cho tới bây giờ vẫn được xem là một quá trình do đa yếu tố tác động.
Kết thể Carr:
Ở một số người thường bị sỏi tái phát, tác giả Carr nhận thấy ở đầu của các ống góp, ở quanh các gai thận có những hạt sỏi nhỏ, tròn, cứng. Những kết thể này được cấu tạo bởi calcium phosphate và mucopotéine.
Đám Randall:
Randall cho rằng nếu tháp đài thận bình thường, nhẵn nhụi thì sỏi khó phối hợp. Ngược lại, nếu vì một lý do nào đó, như trong trường hợp viêm đài bể thận, tháp đài thận bị biến thể, thượng bì ở đài thận vị viêm, tháp đài thận bị mòn lở thì tinh thể sẽ bị kết tủa lại ở tháp đài thận, tạo nên các đám vôi hóa, và sau đó bong ra và rớt xuống đài thận, tạo nên sỏi nhỏ.
Hoại tử của tháp đài thận:
Trong một số trường hợp như đái đường, nhiễm trùng đường tiết niệu mạn tính hay trong trường hợp dùng thuốc giảm đau kéo dài, người ta thấy có hoại tử tháp đài thận, và nơi đây chính là nhân cho những tinh thể lắng đọng tạo thành sỏi.
Tiến triển
Sau khi viên sỏi được tạo thành, nếu sỏi còn nhỏ, thường viên sỏi đi theo đường nước tiểu và được tống ra ngoài. Nhưng nếu viên sỏi bị vướng lại ở một vị trí nào đó trên đường tiết niệu, thì nó sẽ to ra, gây cản trở lưu thông của nước tiểu, đưa đến ứ đọng và dãn phình ở phía trên chỗ tắc. Lâu ngày sẽ đưa tới những biến chứng:
Ứ nước tiểu.
Nhiễm trùng.
Phát sinh thêm những viên sỏi khác.
Cuối cùng sẽ phá hủy dần phần thận đã sản sinh ra nó.
Những nguyên nhân làm cho viên sỏi bị vướng lại
Hình dạng và kích thước của viên sỏi:
Một viên sỏi lớn, sần sùi thì dễ bám vào niêm mạc và bị vướng lại.
Trên đường tiết niệu có các chỗ hẹp tự nhiên bởi cấu trúc giải phẫu: Viên sỏi không qua được những chỗ hẹp đó, các chỗ hẹp đó là
Cổ đài thận.
Cổ bể thận.
Những chỗ hẹp ở niệu quản.
Vùng thắt lưng, có những mạch máu sinh dục (mạch máu buồng trứng hay tinh hoàn) bắt chéo qua và ở nơi đó niệu quản hay bị gấp khúc, nên viên sỏi có thể bị vướng lại.
Vùng chậu hông, niệu quản bắt chéo qua một số động mạch như động mạch chậu, động mạch bàng quang tử cung.
Vùng sát bàng quang, niệu quản bắt chéo qua ống dẫn tinh.
Phần niệu quản trong nội thành bàng quang,
Vì vậy, viên sỏi niệu quản hay bị vướng lại ở những đoạn như sau:
Đoạn thắt lưng 1/3 trên của niệu quản.
Đoạn trong chậu hông bé.
Đoạn nội thành của bàng quang.
Ở bàng quang: Cổ bàng quang là chỗ hẹp chủ yếu. Ở nam giới, cổ bàng quang có tiền liệt tuyến bao bọc vì vậy sẽ khó qua hơn ở phụ nữ.
Ở niệu đạo:
Ở nữ giới niệu đạo không có chỗ hẹp và ngắn hơn vì thế sỏi ít bị vướng lại hơn. Ở nam giới, niệu đạo có ba chỗ mở rộng ra và viên sỏi hay lọt vô đó. Các nơi đó là
Xoang tiền liệt tuyến.
Hành niệu đạo.
Hố thuyền ở gần lỗ sáo.
Ảnh hưởng của viên sỏi đối với đường tiết niệu
Nước tiểu từ đài bể thận xuống bàng quang nhờ những nhu động. Muốn có nhu động phải có tuần tự như sau:
Sự giãn nở của cơ vòng phía trước.
Sự co bóp của cơ vòng phía sau.
Sự co bóp của những cơ dọc.
Hiện tượng này phải xảy ra tuần tự từ trên xuống dưới thì nước tiểu mới đi được. Nhu động khởi phát từ đài thận, lan xuống bể thận và tới niệu quản. Chóp đài thận và cổ bể thận là các nơi chủ nhịp của những sóng nhu động.
Khi viên sỏi bị vướng lại ở bên trong đường tiết niệu, nó sẽ ảnh hưởng tới đường tiết niệu qua 3 giai đoạn
Giai đoạn chống đối:
Đường tiết niệu phía trên viên sỏi sẽ tăng cường sức co bóp để tống sỏi ra ngoài. Niệu quản và bể thận phía trên viên sỏi chưa bị giãn nở. Có sự tăng áp lực đột ngột ở đài bể thận gây cơn đau quặn thận. Trên lâm sàng ở giai đoạn này bệnh nhân hay biểu hiện vì các cơn đau quặn thận điển hình.
Giai đoạn giãn nở:
Thông thường sau khoảng 3 tháng nếu sỏi không di chuyển được thì niệu quản, bể thận và đài thận phía trên viên sỏi sẽ bị giãn nở, nhu động của niệu quản bị giảm.
Giai đoạn biến chứng:
Viên sỏi nằm lâu sẽ không di chuyển được vì bị bám dính vào niêm mạc, niệu quản bị xơ dày, có thể bị hẹp lại. Chức năng thận sẽ bị giảm dần, thận ứ nước, ứ mủ nếu có nhiễm trùng, sỏi còn tồn tại trong đường tiết niệu là một yếu tố thuận lợi cho việc nhiễm trùng tái diễn, kéo dài ngày sẽ gây viêm thận bể thận mạn tính và đưa tới suy thận mạn. Sỏi niệu quản hai bên có thể gây vô niệu do tắc nghẽn.
Ngừa bệnh sỏi tiết niệu bằng ăn uống
Hỗ trợ trị liệu và dự phòng tái phát sỏi tiết niệu bằng ăn uống hết sức quan trọng, trong đó có việc sử dụng những món ăn - bài thuốc theo kinh nghiệm của y học cổ truyền Sỏi tiết niệu là một bệnh hay gặp, tùy theo vị trí phát sinh mà người ta phân ra sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang... Trong y học cổ truyền, sỏi tiết niệu thuộc phạm vi chứng "Thạch lâm" với tác nhân chủ yếu là do cảm nhiễm thấp nhiệt bên ngoài, ăn quá nhiều đồ cay nóng, béo ngọt, uống rượu vô độ, rối loạn tình chí lâu ngày làm tổn thương các tạng phụ khiến thấp nhiệt nội sinh tụ lại ở đường tiết niệu mà tạo nên sỏi.
Phương pháp trị liệu sỏi tiết niệu có hai nhóm: phẫu thuật (bao gồm cả tán sỏi ngoài cơ thể) và dùng thuốc. Nhưng dù sử dụng phương thức nào đi nữa thì vấn đề hỗ trợ trị liệu và dự phòng tái phát bằng ăn uống vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng, trong đó có việc sử dụng các món ăn - bài thuốc theo kinh nghiệm của y học cổ truyền. Xin được dẫn ra một số giả dụ cụ thể để độc giả tham khảo và vận dụng.
Bài 1: Kê nội kim (màng màu vàng ở bên trong mề gà) 1 - 2 cái, rửa sạch, thái chỉ xào với rau ăn mỗi ngày. Chú ý không đun quá lâu để tránh làm giảm tác dụng của thuốc. Có tác dụng tiêu thạch hoá ứ, dùng rất tốt cho người bị sỏi tiết niệu.
Bài 2: Da nhím 50g, kê nội kim sống 50g, mật ong 500 ml. Hai vị sấy khô, tán bột, đem đun với mật ong, cô lại thành dạng cao đặc, đựng trong bình kín dùng dần, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 thìa cà phê với nước ấm. Có tác dụng hoá ứ bài thạch.
Bài 3: Bàng quang lợn 2 cái, tam thất bột 10g. Bàng quang lợn rửa sạch, hầm lửa nhỏ trong 2 giờ, sau đó thái miếng, chấm với bột tam thất, chia ăn 2 lần trong ngày. Có tác dụng hóa ứ chỉ huyết, dùng rất tốt cho trường hợp sỏi tiết niệu gây tiểu ra máu.
Bài 4: Ốc đồng 1 bát, rượu trắng 3 bát. Ốc làm sạch, xào chín rồi đổ rượu vào đun nhỏ lửa, cô lại còn chừng 1 bát, uống mỗi ngày 5 ml. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, bài thạch.
Bài 5: Kim tiền thảo 30g, sắc lấy nước rồi ninh với 90g ý dĩ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Có tác dụng lợi niệu, bài thạch, thông lâm.
Bài 6: Đậu xanh 60g, xa tiền tử (đựng trong túi vải) 30g, hai vị đem nấu chín bằng nồi đất rồi ăn. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi niệu thông lâm.
Bài 7: Bầu tươi 1 quả, mật ong lượng vừa đủ. Bầu gọt vỏ, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước rồi hoà tan với mật ong, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng lợi niệu bài thạch.
Bài 8: Khế tươi 5 quả, mật ong lượng vừa đủ. Khế rửa sạch, thái miếng rồi cho vào nồi sắc với 3 bát nước, cô lại còn 1 bát, hoà mật ong chia uống 2 lần trong ngày. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi niệu, đặc biệt tốt với sỏi bàng quang, viêm bàng quang.
Bài 9: Râu ngô 50g rửa sạch, sắc lấy nước uống thay trà trong ngày. Có công dụng thanh nhiệt hoá thạch.
Bài 10: Kim tiền thảo 50g, kê nội kim 2 cái. Hai vị rửa sạch, sắc uống. Có tác dụng thanh nhiệt lợi niệu, tiêu tích bài thạch.
Bài 11: Vỏ bí xanh 60g, râu ngô 60g, vỏ quả cau 30g. Tất cả rửa sạch, sắc với 4 bát nước lấy còn 1 bát, hoà thêm một chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, hoá thạch.
Bài 12: Địa phu tử 30g, hải kim sa 10g, cam thảo sống 6g. Địa phu tử và hải kim sa cho vào túi vải hãm với nước sôi trong bình kín cùng với cam thảo, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, thông lâm.
Bài 13: Thạch vi 300g, xa tiền tử 300g, chi tử 150g, cam thảo 90g. Tất cả đem sấy khô, tán vụn, mỗi ngày lấy 30g cho vào túi vải, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Có tác dụng lợi thuỷ thông lâm, thanh nhiệt giải độc.
Bài 14: Hải kim sa 30g, cây hublông (cây men bia) 30g, phượng vĩ thảo 30g, kim tiền thảo 30g. Tất cả phơi khô, tán vụn, trộn đều, mỗi ngày lấy 30g cho vào túi vải hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi niệu thông lâm.
Các món ăn - bài thuốc nêu trên đều rất đơn giản, rẻ tiền, dễ kiếm và dễ dùng. Để đạt được hiệu quả, cần chú ý sử dụng kiên trì và thường xuyên.
Điều trị sỏi tiết niệu như thế nào?
Sỏi thận là tình trạng bệnh lý đã được đề cập tới từ rất lâu và là một bệnh hay gặp,
hay tạo thành các cơn đau quặn thận, dễ gây biến chứng như nhiễm khuẩn, suy thận cấp hoặc mạn tính. Tùy theo kích thước, vị trí và biến chứng của sỏi gây ra mà có những chỉ định can thiệp lấy sỏi khác nhau.
Điều trị nội khoa
Điều trị cơn đau quặn thận do sỏi:
Giảm đau: Thường những thuốc kháng viêm không Steroid có tác dụng tốt trong trường hợp này, có thể dùng Voltarene ống 75mg tiêm tĩnh mạch.
Trong trường hợp không có hiệu quả, những tác giả phương Tây thường khuyên nên sử dụng Morphin.
Giãn cơ trơn: Tiêm tĩnh mạch các thuốc Buscopan, Drotaverin,...
Giảm lượng nước uống vào.
Kháng sinh, nếu có biểu hiện nhiễm trùng, chú ý chọn các loại kháng sinh có tác dụng trên vi khuẩn gram âm. Cephalosporin thế hệ 3, Quinolone và các Aminozide hay được sử dụng nhiều, cần thay đổi liều lượng theo mức độ suy thận (nếu có) và tránh dùng Aminozide khi suy thận (kháng sinh độc thận). Giải quyết nguyên nhân gây tắc nghẽn niệu quản (sỏi, dị dạng đường niệu gây ứ nước). Một số trường hợp sỏi niệu quản gây cơn đau quặn thận không đáp ứng với chữa trị nội khoa thì cần chỉ định can thiệp phẫu thuật sớm để giải quyết tắc nghẽn. Tuỳ theo cơ địa bệnh nhân, số lượng, kích thước sỏi và tình trạng chức năng thận từng bên để quyết định dẫn lưu tối thiểu bể thận qua da hay có thể can thiệp lấy sỏi bằng mổ cấp cứu.
Dùng thuốc uống để làm tan sỏi có được không ? Đây là câu hỏi đã từ lâu được các nhà nghiên cứu xem xét. Ngày nay, người ta kết luận như sau:
Đối với hòn sỏi nhỏ và trơn láng:
Nhờ sự nhu động của niệu quản hòn sỏi sẽ di chuyển dần để được tống ra ngoài. Điều này diễn ra một cách tự nhiên chứ không phải do thuốc làm “bào mòn“ hòn sỏi như một số người thường nghĩ. Tuy nhiên thuốc lợi tiểu làm tăng dòng nước tiểu, thuốc chống viêm không stéoide làm cho niêm mạc niệu quản không bị phù nề làm cản trở sự di chuyển của sỏi nên có công dụng tốt cho hòn sỏi chuyển động dễ dàng. Chỉ có sỏi acid uric là tan được dưới tác dụng của thuốc:
Đây là sỏi không cản quang hay gặp ở những nước phương tây. pH nước tiểu thường rất acid < 6 sỏi sẽ tan khi ta cho kiềm hóa nước tiểu, cách chữa trị như sau:
Chế độ ăn: giảm đạm, kiêng rượu, bia, thuốc lá.
Cho bệnh nhân uống nhiều nước trên 2 lít nước mỗi ngày
Làm kiềm hóa nước tiểu bằng những loại thuốc:
Bicarbonate de Sodium 5 -10g/ ngày.
Foncitril 4000: 1-4 viên /ngày.Loại này có chứa những hóa chất citratesodium, citratepotassium, acid citrique, và triméthyl phloroglucinol.
Hungarie sản xuất với những thuốc như Malurit và Magurlit tương tự như Foncitril. Cách dùng liều tấn công 3-4 viên/ngày cho tới khi pH > 7 sau đó duy trì từ 1-2 viên/ngày và duy trì pH nước tiểu và tới khi siêu âm thấy hòn sỏi đã tan hết.
Allopurinol (zyloric): Là thuốc ức chế purine liều 100- 300mg mổi ngày tùy theo pH nước tiểu dùng cùng với Foncitril cho tới khi sỏi tan hết trong trường hợp sỏi lớn có khi phải dùng thuốc liên tục trong nhiều tuần có thể gây tác dụng phụ như buồn nôn, tiêu chảy, ngứa, nổi mân ở da, suy chức năng gan. Nên uống thuốc sau khi ăn.
Điều trị thuốc phối hợp:
Thuốc lợi tiểu loại thiazide sẽ giúp sự tái hấp thu calxi qua ống thận thường phải dùng duy trì trong nhiều tháng mới có kết quả như Hypochlorothiazide (Esidrex) 1-2 viên/ngày. Vitamin B6 có công dụng tốt trong việc chống tạo sỏi oxalat (theo nghiên cứu Prien).
Điều trị nội khoa sau phẩu thuật mổ lấy sỏi
Vấn đề tái phát sỏi sau mổ là hết sức gay go, các yếu tố cho sự tái phát sỏi là
Sót sỏi sau phẫu thuật:
Là yếu tố duy trì nhiễm trùng niệu làm sỏi tiến triển
Tồn tại chỗ hẹp trên đường tiết niệu.
Nhiễm trùng niệu không chữa trị dứt điểm:
Điều cần thiết là phải chữa trị dứt điểm nhiễm trùng niệu tốt nhất theo kháng sinh đồ thời gian từ 4 - 6 tuần.
Điều trị ngoại khoa
Mổ lấy sỏi.
Các biện pháp khác:
Phẫu thuật nội soi lấy sỏi.
Tán sỏi ngoài cơ thể.
Lấy sỏi niệu quản qua da.
Chữa trị dự phòng
Cho bệnh nhân uống nhiều nước, trên 2,5lít / ngày uống rải đều ra trong ngày.
Về chế độ ăn: tuỳ thuộc vào bản chất của sỏi mà có chỉ định thích hợp cho từng bệnh nhân.
Đối với sỏi Canxi:
Loại trừ u tuyến cận giáp.
Chữa trị tốt u tuỷ xương.
Những bệnh nhân có Canxi niệu tăng thì có thể cho dùng lợi tiểu Thiazide để làm giảm nồng độ Canxi niệu dưới 2 mmol/l.
Đối với sỏi Oxalate:
Loại trừ những thức ăn giàu Oxalate như rau muống, Chocolate,...
Đối với sỏi Oxalate có Canxi niệu tăng và Phospho máu giảm thì có thể bổ sung Phospho: 0,5 -1 g uống.
Sỏi Cystine:
Chế độ ăn nghèo các acide amine có lưu huỳnh.
Cùng loại bỏ bệnh sỏi thận nhờ thực phẩm
Nếu bạn được chuẩn đoán là bị sỏi thận, bạn cần nên thay đổi chế độ ăn uống của mình. Một số loại thực phẩm có công dụng làm vỡ sỏi và tống xuất chúng ra khỏi cơ thể. Thường xuyên ăn các loại thực phẩm này là cách để bạn loại bỏ sỏi thận. Sỏi thận là căn bệnh khá phổ biến. Chúng tiến triển trong cơ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chế độ ăn uống và lối sống đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển sỏi thận.
Sau đây là các loại thực phẩm những tác dụng loại bỏ sỏi thận ra khỏi cơ thể.
Trái cây họ cam quýt
Những loại trái cây như cam, chanh, bưởi và những loại trái cây họ cam quýt khác rất có lợi trong việc chữa trị bệnh sỏi thận. Các loại trái cây này có chứa axit citric, một loại chất có vai trò quan trọng trong việc phá hủy và “trục xuất” sỏi ra khỏi cơ thể. Có điều này do axit citric bao quanh những viên sỏi. Điều này có nghĩa là chúng sẽ làm viên sỏi không thể tiến triển to hơn nữa và cứ tiếp tục bao quanh viên sỏi cho tới khi nó bị phá hủy. Axit citric là một hợp chất mạnh và làm phá hủy sỏi thận ở mức độ ổn định. Chỉ trong một thời gian ngắn, các viên đá sẽ bị phân hủy và đi ra ngoài cơ thể qua nước tiểu.
Thực phẩm giàu chất xơ
Thực phẩm giàu chất xơ rất có lợi trong việc chữa trị sỏi thận. Loại thực phẩm này có công dụng làm sạch cơ thể từ bên trong nếu được tiêu thụ ở một lượng phù hợp. Yến mạch và các loại ngũ cốc là nguồn chất xơ tuyệt vời. Các loại thực phẩm giàu chất xơ thúc đẩy quá trình bài tiết trong cơ thể và quá trình này sẽ giúp đẩy những viên sỏi ra khỏi thận. Tuy nhiên, các loại ngũ cốc nguyên hạt sẽ có tác dụng tốt hơn so với loại tinh chế.
Những loại trái cây và rau có hàm lượng chất xơ cao cũng là loại thực phẩm nên có trong chế độ ăn của những bệnh nhân sỏi thận, bởi chúng cũng sẽ giúp những viên sỏi nhanh chóng bị đẩy ra ngoài cơ thể.
Nước ép quả nam việt quất
Nước ép của quả nam việt quất là bài thuốc phổ biến được sử dụng trong việc chữa trị bệnh sỏi thận. Quả nam việt quất có hàm lượng axit cao, do đó mà chúng có công dụng rất lớn trong việc chữa trị bệnh sỏi thận. Quả nam việt quất tươi hay nước ép của nó đều đã được những nhà khoa học chứng minh là có công dụng rất lớn đối với bệnh nhân sỏi thận. Chúng khiến các viên sỏi thận bị phá vỡ và tiếp đó là tống xuất chúng ra khỏi cơ thể. Quả nam việt quất cũng có công dụng ngặn ngừa sự phát triển của các viên sỏi. Trong hầu hết những trường hợp các viên sỏi này được phân hủy và đưa ra ngoài cơ thể quá nước tiểu. Quả nam việt quất là một loại trái cây dễ ăn, vì vậy hãy thường xuyên sử dụng chúng.