Là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già do Entamoeba histolyca hoặc do vi khuẩn Shigella. Hầu hết nhiễm trùng ở dạng mang mầm bệnh không triệu chứng, một số biểu hiện ở dạng tiêu chảy nhẹ kéo dài, hoặc trầm trọng hơn là lỵ tối cấp. Biểu hiện lâm sàng ngoài ruột thường là áp xe gan, có thể vỡ vào màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim.

dinhduonghoc.com - Bệnh kiết lỵ là gì?

Bệnh kiết lỵ lây truyền bằng cách nào?

Qua thức ăn, nước uống, nước rửa rau quả.

Thú vật mang mầm bệnh (chó, mèo).

Ruồi là trung gian tuyền bệnh nguy hiểm.

Do tay bẩn.

Bào nang dính dưới móng tay.

Ngoài ra bệnh kiết lỵ có thể lây qua hoạt động sinh dục, và đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở những quần thể đồng tính luyến ái.

 

Quýt gai chữa bệnh kiết lỵ hiệu quả

Quýt gai có vị cay, tính ấm, thường được dùng chữa các chứng phong thấp, ho hen, cảm sốt, đau bụng, sưng tấy, ứ huyết, gãy xương, rắn cắn... Quả, lá, rễ và vỏ cây đều có thể dùng làm thuốc.

Sau đây là một số ứng dụng cụ thể:

- Chữa cảm cúm, nhức đầu: Lá quýt và những loại lá thơm khác như sả, cúc tần, đại bi, hương nhu, lá bưởi, lá chanh..., đun nước uống và xông cho ra mồ hôi.

- Chữa phong thấp, đau lưng, đau mình: Rễ quýt 16 g, thổ phục linh 12 g, ngưu tất 12 g, thiên niên kiện 8 g. Tất cả thái nhỏ, sắc với nước hoặc ngâm rượu uống. Cũng có thể nấu thành cao rồi pha rượu dùng.

- Chữa ho do phong nhiệt: Vỏ rễ quýt 20 g, vỏ rễ dâu 10 g, rễ hoặc lá cam thảo nam 10 g (hoặc cam thảo bắc 5 g). Ba thứ thái mỏng, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, thêm đường, chia thành 2-3 phần uống trong ngày.

- Chữa chứng ho nhiều đờm: Quýt xanh 8-16 quả, trộn với 1 thìa nhỏ đường kính hoặc mật ong, một chút muối ăn và 5 g bồ hóng (đốt bằng củi). Tất cả đem hấp cơm trong 15-20 phút, lấy ra nghiền nát, trộn đều, chia thành 2-3 phần uống trong ngày.

- Chữa kiết lỵ: Vỏ thân quýt 20 g, vỏ quả lựu 20 g, vỏ quả chuối hột 20 g, rễ tầm xuân 20 g, búp ổi 10 g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống.

- Chữa đau bụng, lưng, gối đau nhức: Rễ quýt 15-30 g, sắc nước uống.

- Chữa sâu răng: Đào rễ quýt, rửa sạch, thêm chút muối vào nhai và ngậm. Một lát răng sẽ hết đau.

- Chữa sưng tấy, ứ huyết: Lá quýt 40 g, chia 2 phần, một phần đem phơi khô, sao vàng, sắc uống, một phần để tươi, giã nát, đắp lên chỗ bị thương. Làm liên tục trong 3-4 ngày.

- Chữa mụn rò có mủ lâu ngày: Lá quýt 20 g, lá chanh 20 g, tinh tre 10 g, tất cả phơi khô, tán bột, rây mịn, rắc lên vết thương.

- Chữa đinh râu: Dùng rễ quýt và bã rượu, 2 thứ bằng nhau, giã nhỏ, hơ nóng, đắp lên chỗ đinh râu.

- Chữa rắn cắn: Lá quýt một nắm, rửa sạch, giã nhỏ, thêm ít muối và một chén nước đun sôi để nguội, chắt lấy nước uống và dùng bã đắp vào vết thương.

 

Một số loại nước lá chữa bệnh kiết lỵ

Kiết lỵ có thể chữa được bằng một số loại lá:

Rau hẹ 30 g, rau diếp cá 10 g; rửa sạch, giã nhỏ, lọc bằng nước sôi, để nguội lấy 150 ml nước, chia hai lần uống trong ngày. Uống lúc đói. Cần uống 3 ngày.

Một số loại nước thuốc khác:

- Cỏ nhọ nồi 30 g, lá mơ lông 10 g, rửa sạch, giã nhỏ, lọc bằng nước sôi để nguội lấy 200 ml nước, chia 3 lần uống trong ngày, uống vào lúc đói. Cần uống liền trong 3 ngày.

- Rau má 40 g, cỏ sữa 10 g, rửa sạch, cho vào nồi cùng 300 ml nước, đun sôi kỹ, còn 200,ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống vào lúc đói, cần uống trong 3 ngày liền.

- Rau dền 40 g, rau đay 20 g, rửa sạch, tráng qua nước sôi để nguội, giã nhỏ, vớt lấy nước cốt để uống. Ngày uống 2 lần, uống liền trong 3 ngày.