Bệnh này thường phát sau lao phổi hoặc lao da, gồm nhiều thể như lao kê họng, lao loét bã đậu ở họng, luput họng và lao họng nguyên phát. Các thể bệnh có biểu hiện và tiên tượng nặng nhẹ khác nhau.

dinhduonghoc.com - Bệnh lao họng là gì?

Lao kê họng hiện ít gặp. Thông thường, bệnh nhân đang bị lao phổi. Vi khuẩn lao lan tràn vào họng bằng đường máu khi lao phổi bước vào thời kỳ trầm trọng hoặc lao kết hợp một số bệnh làm suy giảm miễn dịch (như cúm, sởi, sau đẻ, nhiễm HIV). Bệnh nhân thường ở độ tuổi 20-40, có biểu hiện sốt, nhiệt độ không đều, ra mồ hôi như tắm, khó thở, nuốt đau nhói lên tai, không ăn được và hay bị sặc lên mũi khi uống nước. Người bệnh mệt mỏi nhiều và gầy sút nhanh. Trong họng có những hạt như hạt kê, lổn nhổn, tập trung thành từng mảng xù xì, dầy cộp, khi vỡ ra để lại những vết loét nông rất bẩn.

Tiên lượng bệnh rất nặng nề

Lao họng mạn tính thể loét bã đậu luôn thứ phát sau lao phổi. Bệnh nhân là những người đang bị lao phổi đã được xác nhận là lao phổi thể hang. Biểu hiện: ho khạc nhiều, gầy sút, có vi khuẩn lao trong đờm, chụp phổi thấy tổn thương hang lao... Bệnh nhân đau họng, khó nuốt, nói giọng mũi hoặc khàn tiếng, thường sặc lỏng, nước bọt chảy ra rất nhiều, chảy cả ra ngoài miệng mà không nuốt kịp; tình trạng nuốt đau ngày càng tăng.

Miệng và họng có nhiều nước bọt và đờm, hôi, thối. Niêm mạc họng tái nhợt, bị xước nham nhở với những vết loét nông, đáy xám, rất bẩn. Hạch cổ lổn nhổn thành từng chuỗi, hoặc sưng to thành khối, có khi bị nhuyễn hóa và rò mủ. Bệnh diễn biến chậm, nhưng nếu không điều trị kịp thời, tổn thương sẽ ăn mất lưỡi gà, amiđan, lan xuống sàn miệng, niêm mạc má. Bệnh nhân suy mòn dần và sẽ chết vì lao phổi.

Luput họng luôn xuất hiện sau luput mặt hoặc luput mũi. Bệnh nhân thường là phụ nữ và không có bệnh tích lao ở phổi. Họ có cảm giác vướng và rát ở họng miệng, thường không thấy đau.

Khám họng thấy lổn nhổn những hạt lấm tấm màu vàng xám, những vết loét nông bờ không đều hoặc các vết loét sâu, đầu nhỏ như đầu kim. Vết loét ít xuất tiết. Vùng bị loét về sau có sẹo dúm hoặc dính niêm mạc hầu, lưỡi gà bị biến dạng và dính vào thành họng, gây rối loạn một số chức năng của họng, khiến bệnh nhân khó chịu thường xuyên. Tiên lượng bệnh thường không nặng, ít khi tử vong trừ một số ít trường hợp tiến triển thành lao kê họng.

Lao họng nguyên phát thường biểu hiện không rõ rệt, chỉ giống như viêm amiđan thông thường. Người bệnh xanh xao, ăn uống kém, niêm mạc nhợt nhạt, hạch cổ có tính chất của hạch lao... Để chẩn đoán xác định bệnh, cần dựa vào một số xét nghiệm cận lâm sàng như: tốc độ lắng máu, phản ứng mantoux, sinh thiết nơi tổn thương và hạch cổ có hình ảnh điển hình của lao.

Lao họng được điều trị theo phác đồ phòng chống lao chung, kết hợp vệ sinh mũi họng thật tốt bằng một số thuốc (như thuốc súc họng kiềm nhẹ để làm thay đổi pH của họng) hoặc bằng tia cực tím, tia lửa điện nguội, đốt cote điện...

 

Điều trị bệnh lao hạch cổ bằng đông y

Bệnh lao hạch cổ, theo Đông y còn được gọi là bệnh tràng nhạc hay bệnh dịch hạch. Bệnh thường thấy ở trẻ nhỏ và thanh niên dưới 30 tuổi. Bệnh do vi trùng lao xâm nhập vào cơ cổ vì đau răng, viêm amiđan, uống văcxin chống lao gây nên, xuất hiện ở một, hai bên cổ hoặc tuyến limpha bị sưng lên.

Khi mới bị bệnh, thường chỉ có một tuyến limpha sưng, hơi cứng nhưng không đau và có thể di chuyển được. Dần dần, bệnh phát triển thành nhiều tuyến limpha cùng sưng, tạo nên chuỗi cục dính với các tổ chức xung quanh và không di chuyển được nữa. Sau đó, tuyến limpha dịch hóa, chuyển thành mủ lạnh rồi vỡ, gây chảy máu, mủ trắng như bã đậu, bột gạo và cuối cùng hình thành hang lỗ hay vết loét. Nhiều người khi bị bệnh có kèm cả triệu chứng sốt, gầy còm, ăn không ngon, ra mồ hôi trộm...

Bệnh này có thể điều trị bằng cả phương pháp đông và tây y. Nếu tự điều trị bằng đông y, người bệnh có thể tham khảo bài thuốc sau:

1. Phượng vĩ thảo 90g, sắc uống ngày một thang, uống liền trong 8 ngày. 2. Cây bạc đầu 30g, cát cánh 12g, cam thảo 9g, sắc uống ngày một thang. 3. Cỏ táu đèn tươi 50g, vỏ bí đao 15g, sắc uống ngày một thang. 4. Cây xà môi tươi 100g, sắc uống ngày một thang.

Khi mắc bệnh, người bệnh phải chú ý nghỉ ngơi và bồi dưỡng sức khỏe, không nên ăn những thứ cay, đắng, nhiều dầu mỡ; kiêng rượu, thuốc lá và những thứ kích thích; hạn chế sinh hoạt vợ chồng.