Các hạt sỏi thận nhỏ có thể gây khó chịu khi theo nước tiểu đi ra ngoài. Trong trường hợp sỏi có kích cỡ lớn tắc lại trong niệu quản và gây đau (lúc đầu có cảm giác đau ở thắt lưng tiếp đó đau lan rộng ra hai bên). Sỏi thận tạo thành do lắng đọng những chất trong thận. Ban đầu sỏi chỉ là có kích cỡ hiển vi tiếp đó lớn dần lên. Thận có chức năng lọc những chất thải từ máu và sản xuất nước tiểu. Khi những chất thải trong nước tiểu không được hòa tan hoàn toàn sẽ dẫn tới sự hình thành các tinh thể. Quá trình lắng đọng tiếp tục dẫn tới tạo thành sỏi.

dinhduonghoc.com - Hiểu biết về bệnh sỏi thận

Sỏi có thể gây tắc hoàn toàn niệu quản làm cho nước tiểu ứ lại trong thận dẫn tới hiện tượng thận ứ nước, dãn niệu quản và bàng quang gây đau.

 

Sự hình thành sỏi

Sỏi tạo thành khi có những hiện tượng: (1) tăng hàm lượng canxi, oxalat hay axít uric trong nước tiểu; (2) thiếu xitrát hoặc thiếu nước trong thận để hòa tan những chất thải. Thận có nhiệm vụ kéo dài lượng nước cho cơ thể và loại chất thải. Nếu thiếu nước, những chất như canxi, oxalat, axít uríc không được hòa tan hoàn toàn dẫn tới sự hình thành các tinh thể. Nước tiểu chứa những chất hóa học như citrát, manhê, pyrô phốtphat có chức năng chống lại quá trinh tạo tinh thể.

Nếu hàm lượng các chất này trong nước tiểu thấp sẽ hình thành điều kiện cho sỏi hình thành. Trong các chất này, xitrát đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình chống tạo tinh thể.

 

Các loại sỏi thận

Thành phần hóa học của sỏi phụ thuộc vào sự mất cân bằng hóa học của nước tiểu. Bốn dạng sỏi thường gặp là: sỏi canxi, sỏi axít uríc, sỏi struvite và sỏi cystine.

(1) Sỏi canxi: Khoảng 85% thành phần của loại sỏi này là canxi. Tác nhân hay gặp nhất là do hàm lượng canxi có trong nước tiểu quá cao (hypercalciuria). Lượng canxi vượt quá mức thường được thải qua nước tiểu. Canxi kết hợp với những chất thải khác tạo thành sỏi. Nếu hàm lượng xitrát thấp và hàm lượng oxalat, axít uríc cao, lượng nước tiểu giảm sẽ là các điều kiện thuận lợi để sỏi canxi hình thành. Canxi có thể kết hợp với oxalat tạo thành calxi oxalat hoặc kết hợp với phốt phát tạo thành canxi phốt phát (calcium phosphate). Trong đó calxi oxalat thường gặp hơn. Sỏi canxi phốt phát hay thấy ở những bệnh nhân rối loạn tiêu hóa hoặc rối loạn hormon bởi bệnh cường cận giáp(hyperparathyroidism) và hiện tượng nhiễm toan ống thận.

dinhduonghoc.com - Hiểu biết về bệnh sỏi thận

Sỏi canxi

Hiện tượng tăng hấp thu canxi ở đường tiêu hóa, tăng hàm lượng hormon tuyến cận giáp và rối loạn lọc trong thận dẫn tới làm tăng canxi trong nước tiểu. Hiện tượng tăng độ axít ống thận (thường do di truyền làm thận không có khả năng bài tiết các axít) làm giảm xitrat nước tiểu và độ axít tổng số dẫn tới hình thành sỏi (thường là sỏi canxi phốt phát)

(2) Sỏi axít uríc (khoảng 10% trường hợp sỏi): Nếu làm lượng axít trong nước tiểu cao hoặc axít được bài tiết quá nhiều, axít uríc có thể không được hòa tan hoàn toàn dẫn tới hình thành sỏi. Dạng sỏi này thường gặp ở nam giới.

dinhduonghoc.com - Hiểu biết về bệnh sỏi thận

 Sỏi axít uríc 

(3) Sỏi struvite còn được gọi là sỏi truyền nhiễm do được tạo thành khi đường tiết niệu bị viêm nhiễm (giả dụ viêm bàng quang) dẫn tới làm mất cân bằng các thành phần trong nước tiểu. Vi khuẩn trong đường tiết niệu giải phóng những chất hóa học trung hòa bớt axít trong nước tiểu tạo điều kiện cho vi khuẩn tiến triển nhanh hơn và là điểu kiện cho sỏi hình thành. Phụ nữ mắc loại sỏi này nhiều hơn nam giới do đường tiết niệu hay bị viêm nhiễm hơn. Sỏi loại này hay có hình dáng lởm chởm, sắc cạnh và có dạng "sừng nai" và tiến triển rất nhanh.

dinhduonghoc.com - Hiểu biết về bệnh sỏi thận

Sỏi struvite

(4) Sỏi cystin: cystin là một axít amin khó hòa tan. Do di truyền vì vậy một số người có hàm lượng cystin trong nước tiểu cao dẫn tới tạo thành sỏi. Loại sỏi này khó chữa trị và cần thời gian chữa trị dài.

 

Nguyên nhân mắc sỏi thận

Sỏi thận tạo thành khi thay đổi xảy ra trong cân bằng thông thường của nước, muối, chất khoáng và những thứ khác trong nước tiểu. Tác nhân phổ biến nhất của bệnh là do không uống đủ nước. Cố gắng uống đủ nước để làm cho nước tiểu trong (khoảng 8-10 ly/ngày). Một vài người có nhiều khả năng mắc bệnh sỏi thận hơn vì bệnh lí hoặc tiền sử gia đình. Sỏi thận có thể là một bệnh di truyền. Nếu mọi người khác trong gia đình bạn mắc bệnh này thì bạn cũng có thể mắc bệnh.

Nguyên nhân và các yếu tố nguy​ cơ

Một vài yếu tố làm tăng nguy cơ mắc sỏi thận như uống không đủ nước, mất nước bởi các tác nhân khác nhau, thiểu niệu, tăng nồng độ canxi, oxalate, axit uric hay giảm nồng độ citrate trong nước tiểu… Bất kỳ tác nhân nào cản trở sự lưu thông của đường dẫn niệu (như tắc niệu quản, tắc niệu đạo do bệnh lý hoặc di truyền) đều có thể tăng nguy cơ sỏi thận.

+ Những yếu tố hóa học:

Canxi (tăng canxi)

Cystine (cystine trong nước tiểu, do di truyền)

Oxalate (tăng oxalate)

Axit uric (tăng axit uric trong nước tiểu)

Natri (tăng natri trong nước tiểu)

Nồng độ citrate thấp là yếu tố nguy cơ dẫn tới giảm citrate trong nước tiểu (hypocitrauria)

Các yếu tố bệnh lý khác làm tăng nguy cơ mắc sỏi thận:

- Hư thận bẩm sinh làm tăng nguy cơ mất canxi và dễ dẫn tới hình thành sỏi (thận tủy xốp, medullary spongebkidney)

- Hormon cận giáp cao quá mức làm mất canxi (cường cận giáp)

- Bệnh Gout (do tăng axit uric tromg máu)

- Tăng huyết áp (hypertension)

- Viêm đại tràng dẫn tới tiêu chảy mãn, mất nước và mất cân bằng điện giải (colitis)

- Thận không có khả năng bài tiết axit (renal tubular acidosis) và có thể do yếu tố di truyền

- Do bệnh lý đường tiêu hóa gây tiêu chảy, mất nước và chứng giảm citrate (Crohn s disease)

- Viêm khớp

- Viêm đường tiết niệu ảnh hưởng tới chức năng của thận

- Khẩu phần đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo thành sỏi và diễn biến bệnh lý đặc biệt với một số người đã từng mắc sỏi thận. Khẩu phần gồm những thức ăn chứa nhiều natri, chất béo, thịt, đường và ít chất xơ, protein thực vật, tinh bột làm tăng nguy cơ mắc sỏi thận. Bệnh có thể tái phát ở các bệnh nhân mẫn cảm với các chất hóa học sinh ra từ quá trình tiêu hóa protein có nguồn gốc động vật và các bệnh nhân dung quá nhiều thịt trong khẩu phần ăn.

- Liều cao vitamin C (trên 500mg một ngày) có thể dẫn tới hiện tượng tăng oxalate trong nước tiểu (hyperoxauria) và gây tăng nguy cơ sỏi thận. Oxalat được thường thấy trong các loại rau, đậu xanh, cà chua, lạc (đậu phộng), sôcôla, chè.

 

Chữa trị sỏi thận như thế nào?

Chữa trị sỏi thận thay đổi, tùy thuộc vào loại và những tác nhân.

Chữa trị sỏi nhỏ với những triệu chứng tối thiểu

Phần lớn sỏi thận sẽ không cần chữa trị xâm lấn. Có thể vượt qua một hòn sỏi nhỏ bằng cách:

Nước uống. Uống nhiều như 2 - 3 lít (1,9-2,8 lít) hàng ngày có thể giúp rửa hệ thống tiết niệu.

Thuốc giảm đau. Một hòn đá nhỏ đi qua có thể gây ra một số khó chịu. Để giảm đau nhẹ, bác sĩ có thể khuyên nên sử dụng giảm đau như ibuprofen (Advil, Motrin…), acetaminophen (Tylenol…) hay naproxen sodium (Aleve).

Điều trị sỏi lớn hơn và gây ra các triệu chứng

Sỏi thận có thể không được xử lý bằng các phương pháp bảo thủ - hoặc vì chúng quá lớn để tự vượt qua hay vì gây chảy máu, tổn thương thận hoặc nhiễm trùng đường tiết niệu liên tục - có thể cần chữa trị xâm lấn hơn. Thủ tục bao gồm:

Sử dụng sóng âm để phá vỡ. Một thủ thuật được gọi là tán sỏi ngoài cơ thể, sử dụng sóng âm thanh để tạo thành dao động mạnh được gọi là sóng xung kích, phá vỡ đá thành từng miếng nhỏ mà tiếp đó được thông qua trong nước tiểu. Thủ tục tạo ra một tiếng động lớn và có thể gây đau vừa phải, do đó có thể giảm đau hoặc gây mê để làm cho thoải mái. Những chi tiết cụ thể về thủ tục có thể thay đổi tùy thuộc vào loại thiết bị bác sĩ sử dụng.

Tán sỏi ngoài cơ thể, sóng có thể gây ra máu trong nước tiểu, bầm tím trên lưng hoặc bụng, chảy máu quanh thận và những cơ quan lân cận khác và khó chịu như là những mảnh đá đi qua đường tiết niệu.

Phẫu thuật để loại bỏ đá có kích cỡ lớn trong thận. Một thủ thuật lấy sỏi thận qua da liên quan tới việc phẫu thuật loại bỏ sỏi thận thông qua một đường rạch nhỏ ở lưng. Phẫu thuật này có thể được đề nghị nếu sóng tán sỏi ngoài cơ thể đã không thành công hoặc nếu đá là rất lớn Sử dụng một phạm vi để loại bỏ đá. Để loại bỏ một hòn đá trong niệu quản hoặc thận, bác sĩ có thể thông qua một ống nhỏ (ureteroscope) được trang bị một máy ảnh thông qua niệu đạo và bàng quang đến niệu quản. Bác sĩ thông qua niệu quản tới đá. Khi đá được đặt, các công cụ đặc biệt có thể bẫy đá hay phá vỡ nó thành những phần mà sẽ qua đi trong nước tiểu.

Phẫu thuật tuyến cận giáp. Một số loại đá canxi là do tuyến cận giáp hoạt động quá mức - nằm ở bốn góc của tuyến giáp, ngay dưới quả táo Adam. Khi những tuyến này sản xuất quá nhiều hormone tuyến cận giáp, cơ thể với mức độ canxi có thể trở nên quá cao, dẫn tới sự bài tiết quá nhiều can - xi trong nước tiểu. Điều này đôi khi gây ra do một khối u lành tính nhỏ ở một trong bốn tuyến cận giáp. Bác sĩ phẫu thuật có thể cắt bỏ khối u hay những tuyến cận giáp.

 

Thay thế thuốc

Thay thế thuốc không thể chữa trị sỏi thận. Tuy nhiên, khi kết hợp với lời khuyên của bác sĩ, biện pháp chữa trị thay thế có thể giúp giảm nguy cơ sỏi thận. Một số bằng chứng cho thấy những biện pháp chữa trị thay thế có thể giúp:

Trà. Uống một tách trà đen hay trà xanh hàng ngày có thể giảm nguy cơ sỏi thận. Một nghiên cứu ở phụ nữ thấy một số người uống trà đen có nguy cơ thấp hơn của sỏi thận. Những nghiên cứu đã không được chặt chẽ và chỉ liên quan tới phụ nữ, do đó nó không cung cấp bằng chứng mạnh mẽ rằng uống trà là hữu ích cho tất cả sỏi thận. Nếu thích uống trà, có thể có một cơ hội tiếp tục uống trà có thể giúp giảm nguy cơ sỏi thận. Tuy nhiên, trà có chứa hàm lượng oxalate. Vì vậy, nếu nước tiểu có một mức oxalate cao, bác sĩ có thể khuyên không uống trà.

Nước chanh và nước cam. Về mặt lý thuyết, uống nước chanh hay nước cam có thể làm giảm nguy cơ sỏi thận. Mức acid citric trong nước chanh và nước cam có thể làm giảm mức độ canxi có trong nước tiểu, dẫn tới ít canxi. Nhưng không có nghiên cứu đã chứng minh lý thuyết này. Nếu thích uống nước pha thêm hương vị chanh hoặc nước cam, có thể thấy rằng điều này sẽ giúp giảm nguy cơ sỏi thận. Nhưng không có đủ bằng chứng cho thấy tất cả mọi người nên cố gắng này.