Huyết tương - Lọc huyết tương
Những yếu tố gây bệnh cho cơ thể (vi khuẩn, virut, các chất độc hại, các chất gây viêm nhiễm...) đi vào cơ thể, lây lan từ cơ quan này sang cơ quan kia chủ yếu qua đường máu. Máu cũng là cơ quan mà những yếu tố bệnh sinh luôn tồn tại ở những dạng khác nhau và việc loại bỏ những yếu tố này góp phần tích cực và cơ bản cho việc điều trị.
Thay huyết tương là một liệu pháp ra đời nhằm mục đích trên.
Huyết tương là gì?
Máu là một cơ quan bao gồm những tế bào máu: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương.
Huyết tương đảm nhiệm một vài chức năng như: Là dung dịch tạo dòng chảy trong hệ mạch, tạo điều kiện cho sự di chuyển của những tế bào máu, giúp máu thực hiện đa chức năng quan trọng; Là dung môi hòa tan các chất hữu cơ và vô cơ; Đảm bảo áp suất thẩm thấu và ổn định pH trong máu; Những protein trong huyết tương đóng góp tham gia vào hệ đệm, vào việc hình thành áp suất thẩm thấu và kiến tạo tế bào, vào quá trình trao đổi chất ở mao mạch; Tham gia quá trình đông máu (nhờ các yếu tố đông máu và canxi có trong huyết tương), góp phần bảo vệ cơ thể trong việc chống mất máu khi bị chảy máu; O2, CO2 cũng được hòa tan trong huyết tương dưới một phân áp nhất định để gắn vào hồng cầu, đảm bảo quá trình hô hấp. Huyết tương mang những chất độc mà cơ thể cần đào thải tới thận (là cơ quan bài tiết chính) để đào thải các chất này ra nước tiểu và cuối cùng, huyết tương tham gia vào quá trình miễn dịch nhờ các globulin miễn dịch (IgA, IgG, IgM, IgD, IgE) cũng như những tế bào miễn dịch được huy động ra máu khi có viêm nhiễm xảy ra.
Một liệu pháp mới chữa nhiều bệnh nhất
Hội chứng thận phổi có thể được điều trị bằng liệu pháp thay thế huyết tương.
Thế nào là liệu pháp thay huyết tương?
Thay huyết tương, hiểu một cách thông thường là dùng một loại thiết bị (máy và quả lọc) đưa máu ra ngoài và tách riêng máu toàn phần thành hai phần: phần huyết tương (có chứa các yếu tố gây bệnh) và phần những tế bào máu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu). Những tế bào máu sẽ được trả lại cơ thể và phần huyết tương sẽ được loại bỏ. Phần huyết tương bị thiếu hụt sẽ được bổ sung bằng huyết tương người cho với một lượng tương tương. Đây được coi là liệu pháp thay huyết tương toàn bộ. Đến nay, với sự phát triển của công nghệ lọc máu, phương pháp thay huyết tương toàn bộ chỉ giới hạn trong một vài bệnh lý nhất định, còn trong nhiều trường hợp, người ta cố gắng chỉ lọc bỏ phần huyết tương có chứa yếu tố bệnh lý và giữ lại các thành phần cơ bản như protein, mỡ. Trường hợp này được hiểu là thay huyết tương từng phần.
Liệu pháp thích hợp cho nhiều bệnh
Loại bệnh lý cần thay huyết tương hàng đầu là một vài loại bệnh có liên quan đến tự kháng thể hoặc phức hợp kháng nguyên kháng thể lưu hành trong máu như là hội chứng Guillain-Barré (viêm đa rễ, đa dây thần kinh); bệnh lý thần kinh mất myelin do viêm mạn tính, bệnh nhược cơ; xơ cứng rải rác; hội chứng phổi thận... Những trường hợp này, khi phần huyết tương có yếu tố bệnh lý được loại bỏ thì những triệu chứng lâm sàng được cải thiện rõ rệt, ví dụ như là ở bệnh nhân nhược cơ nặng phải thở máy, người bệnh đang liệt cơ hầu như toàn thân nhưng những cơ hoạt động trở lại chỉ sau một đến hai lần thay huyết tương.
Thay huyết tương cũng được chỉ định trong một vài bệnh như Lupus ban đỏ hệ thống không đáp ứng với các phương pháp điều trị nội khoa thông thường. Hội chứng tăng độ nhớt máu bao gồm những tình trạng lượng protein tăng quá cao trong máu cũng được loại bỏ bằng liệu pháp thay huyết tương. Rất nhiều những loại bệnh lý khác có liên quan đến phức hợp miễn dịch như là ban xuất huyết giảm tiểu cầu (thrombotic thrombocytopenic purpura); hội chứng Lambert-Eaton; hội chứng kháng thể kháng phospholipide..., cũng có thể được chỉ định sử dụng liệu pháp này để điều trị.
Loại bệnh lý thứ hai cần thay huyết tương là các trường hợp mỡ máu tăng quá cao trong máu, nhất là khi triglyceride không đáp ứng với điều trị nội khoa, triglyceride tăng cao (trên 1000mg/dl) dễ gây viêm tụy cấp. Các trường hợp viêm tụy cấp có nồng độ triglyceride tăng cao, khi được thay thế huyết tương thì những triệu chứng cũng được cải thiện rõ rệt.
Thay huyết tương (với bộ quả lọc kép) đang được áp dụng để điều trị một vài bệnh lý như nhiễm virut viêm gan C, tình trạng bilirubin máu tăng quá cao, Pemphigus vulgaris; hội chứng HELLP... bước đầu cho kết quả khả quan.
Có thể là nguy cơ...?
Lợi ích của liệu pháp thay huyết tương trong một vài bệnh lý như trên là không thể bàn cãi, nhưng cũng giống như những phương pháp điều trị khác, thay huyết tương cũng có một vài nguy cơ nhất định. Dị ứng là nguy cơ thường sẽ gặp, đặc biệt đối với trường hợp thay huyết tương toàn phần do phải đưa một lượng lớn huyết tương người cho vào cơ thể (khoảng 2000ml đối với người nặng 50kg). Một số những biến chứng khác như hạ canxi máu; chảy máu và nhiễm khuẩn chỗ đặt catheter để lấy máu ra cũng như là đưa máu trở lại cơ thể; tụt huyết áp, dị ứng với bộ quả lọc của máy, huyết khối trong bộ quả lọc... cũng có thể xảy ra. Mặc dù thế, với một kíp thầy thuốc có kinh nghiệm, tuân thủ đúng qui trình thay huyết tương thì những biến chứng nói trên thường được xử lý tốt, hiếm khi có ảnh hưởng đến bệnh nhân và không phải dừng liệu pháp khi đang tiến hành.