Phổi - Bệnh lao và những điều cần biết
Ngày nay lao là bệnh nhiễm khuẩn chính và hay gặp nhất, ảnh hưởng đến 2 tỉ người tức 1/3 dân số, với 9 triệu ca mới mỗi năm, gây 2 triệu người tử vong, hầu hết ở các nước đang phát triển.
Hầu như (90%) các trường hợp nhiễm khuẩn lao là tiềm ẩn không triệu chứng. 10% trong số người này với cuộc sống họ sẽ phát triển thành bệnh lao có triệu chứng, và nếu không điều trị, nó sẽ giết 50% số nạn nhân. Lao là một trong 3 bệnh lây nhiễm gây tử vong cao nhất trên thế giới: HIV/AIDS giết 3 triệu người hàng năm, lao giết 2 triệu, và sốt rét giết 1 triệu.
Sự sao nhãng trong các quá trình kiểm soát lao, sự phát tán của đại dịch HIV/AIDS và việc di dân đã khiến lao trỗi dậy. Những chủng lao kháng đa thuốc (MDR, multiple drug resistant) đang tăng. Năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới thông báo tình trạng khẩn cấp toàn cầu đối với lao.
Vi khuẩn gây lao
Nguyên nhân gây bệnh lao, Mycobacterium tuberculosis (MTB), là vi khuẩn hiếu khí. Vi khuẩn này phân chia mỗi 16 đến 20 giờ, rất chậm so với thời gian phân chia tính bằng phút của những vi khuẩn khác (trong số các vi khuẩn phân chia nhanh nhất là một chủng E. coli, sẽ phân chia mỗi 20 phút). MTB không được phân loại Gram dương hay Gram âm vì chúng không có đặc tính hoá học này, cho dù tạo tế bào có chứa peptidoglycan. Trên mẫu nhuộm Gram, nó nhuộm Gram dương rất yếu hoặc là không biểu hiện ra.
Trực khuẩn lao có hình dáng giống cây que nhỏ, có thể chịu đựng được chất sát khuẩn yếu và còm sống trong trạng thái khô trong nhiều tuần nhưng, trong điều kiện tự nhiên, chỉ có thể tiến triển trong sinh vật ký chủ (cấy M. tuberculosis in vitro cần thời gian không ngắn để lấy có kết quả, nhưng ngày nay là công việc thông thường ở phòng xét nghiệm).
Trực khuẩn lao được xác định dưới kính hiển vi bằng đặc tính nhuộm của nó: chúng vẫn giữ màu nhuộm sau khi bị xử lý với dung dịch acid, vì vậy nó được phân loại là "trực khuẩn kháng acid" (acid-fast bacillus, viết tắt là AFB). Với công nghệ nhuộm thông thường nhất là nhuộm Ziehl-Neelsen, AFB có màu đỏ tươi nổi trội trên nền xanh. Trực khuẩn kháng acid cũng có thể được xem dưới kính hiển vi huỳnh quang và phép nhuộm auramine-rhodamine. Phức hợp M. tuberculosis gồm 3 loài mycobacterium khác có khả năng gây lao: M. bovis, M.africanum và M. microti. Hai loài đầu rất khó thấy gây bệnh và loài thứ 3 không gây bệnh ở người.
Bệnh học
Lây truyền
Lao lây lan qua các giọt nước trong không khí từ chất tiết khi ho, nhảy mũi, nói chuyện hoặc khạc nhổ của người nhiễm vi khuẩn hoạt động. Tiếp xúc gần gũi (kéo dài, thường xuyên, thân mật) là nguy cơ gây bệnh cao nhất (khoảng 22%, nhưng có thể đến 100%). Người mắc bệnh lao hoạt động không chữa trị có thể lây nhiễm sang 20 người khác hàng năm. Các nguy cơ khác bao gồm ra đời ở vùng lao phổ biến, bệnh nhân rối loạn miễn dịch (như HIV/AIDS), cư dân hoặc làm việc ở nơi nhiều người nguy cơ cao, nhân viên phục hồi sức khoẻ phục vụ đối tượng có nguy cơ cao, nơi thu nhập kém, thiếu vắng dịch vụ y tế, dân thiểu số nguy cơ cao, trẻ em lây nhiễm với người lớn thuộc nhóm nguy cơ cao, đối tượng tiêm chích ma tuý. Lây nhiễm chỉ xảy ra ở người mắc bệnh lao hoạt động (không phải lao tiềm ẩn). Khả năng lây nhiễmj phụ thuộc vào mức độ nhiễm khuẩn của bệnh nhân mắc lao (số lượng tống xuất), môi trường truyền nhiễm, thời gian truyền nhiễm và độc lực của vi khuẩn. Chuỗi lây truyền có thể được kết thúc bằng cách cách ly người bệnh ở giai đoạn bệnh hoạt động và áp dụng phương pháp chữa trị kháng lao hữu hiệu.
Bệnh sinh
Tuy rằng chỉ 10% ca nhiễm vi khuẩn lao phát triển đến bệnh lao, nhưng tỉ lệ tử vong là 51% nếu không chữa trị. Nhiễm lao xuất phát khi trực khuẩn lao vào đến phế nang, xâm nhập vào đại thực bào phế nang và sinh sôi theo cấp số mũ. Vi khuẩn bị tế bào đuôi gai lưu giữ và mang tới hạch lympho vùng ở trung thất, sau đó theo dòng máu đến những mô và cơ quan xa, nơi mà bệnh lao có khả năng tiến triển: đỉnh phổi, hạch lympho ngoại biên, thận, não và xương. Lao được phân loại là tình trạng viêm u hạt. Đại thực bào, lympho bào T, lympho bào B và nguyên bào sợi là các tế bào xâu chuỗi lại tạo u hạt, với các lympho bào vây quanh đại thực bào. Chức năng của u hạt không chỉ ngăn ngừa sự lan truyền của mycobacteria, mà còn tạo môi trường tại chỗ cho các tế bào của hệ miễn dịch trao đổi thông tin. Bên trong u hạt, lympho bào T tiết cytokine, như interferon gamma, hoạt hoá đại thực bào và làm chúng ngăn nhiễm khuẩn tốt hơn. Lympho T cũng giết trực tiếp những tế bào bị nhiễm. Điều quan trọng là vi khuẩn không bị u hạt loại trừ hoàn toàn, mà trở nên không linh hoạt, tạo dạng nhiễm khuẩn tiềm ẩn. Nhiễm khuẩn tiềm ẩn chỉ có thể được nhận thấy với xét nghiệm da tuberculin - người nhiễm lao sẽ có đáp ứng quá mẫn muộn đối với dẫn xuất protein tinh khiết từ M. tuberculosis.
Một đặc điểm nữa của u hạt ở lao người là diễn ra đến chết tế bào, còn gọi là hoại tử, ở trung tâm của củ lao. Nhìn bằng mắt thường, củ lao có hình dáng pho mát trắng mềm và được gọi là hoại tử bã đậu. Nếu vi khuẩn lao xâm hại vào dòng máu và lan truyền khắp cơ thể, chúng tạo vô số ổ nhiễm, với dấu hiệu là nhũng củ lao màu trắng ở mô. Trường hợp này được gọi là lao kê và có tiên lượng nặng ở nhiều người nhiễm khuẩn lúc tăng lúc giảm. Mô hoại tử xơ hoá, hình thành sẹo và các khoang chứa chất hoại tử bã đậu. Trong quá trình bệnh hoạt động, một số khoang này liên kết với phế quản và chất hoại tử có thể bị ho ra ngoài, chứa vi khuẩn sống và lây nhiễm sang người khác. Điều trị với kháng sinh phù hợp có thể tiêu diệt được vi khuẩn và khỏi bệnh. Vùng bị lây nhiễm được thay thế bằng mô sẹo.
Cách trị và phòng bệnh lao phổi
Hầu hết những bệnh nhân bị nhiễm vi trùng lao không có triệu chứng. Ở một số người này, thử lao dưới da (gọi là xét nghiệm PPD) sẽ thấy kết quả dương tính trong vòng ba tháng, kết quả dương tính này thông thường sẽ kéo dài suốt đời. Chỉ có một số nhỏ những bệnh nhân bị nhiễm vi trùng lao sẽ có triệu chứng của bệnh lao. Các triệu chứng sẽ không giống nhau tùy theo loại bệnh: Bệnh lao tiên phát (có triệu chứng ngay từ khi bị nhiễm vi trùng lao): Các người bị bệnh này, đặc biệt là trẻ nhỏ, đôi khi chỉ bị sốt nhẹ và uể oải. Các triệu chứng khác có thể là:
- Ho
- Đổ mồ hôi trộm ban đêm
- Kém ăn
- Đau ngực
- Không tăng cân như các trẻ bình thường khác
Bệnh lao thứ phát (vi trùng lao tái hoạt sau một thời gian dài nằm gọn trong cơ thể) có thể gây ra các triệu chứng như:
- Sốt
- giảm cân
- Đổ mồ hôi trộm ban đêm
- Kém ăn
- Đau ngực
- Đuối sức
- Luôn uể oải, “muốn bệnh”
Bệnh nhân cũng hay bị ho, lúc đầu có thể là ho khan, về sau có đàm màu xám xỉn. Khi bệnh đã trở nặng, có thể ho ra máu, hụt hơi, khó thở.
Khi bệnh tiến triển bên ngoài phổi, các triệu chứng sẽ tùy theo cơ quan, bộ phận nào của cơ thể bị nhiễm bệnh. Giả dụ lao hạch sẽ gây ra sưng hạch, đặc biệt là hạch cổ. Nếu lao xương khớp sẽ gây sưng đau xương khớp, hay bị ảnh hưởng nhất là khớp hông, gối, xương sống. Lao đường tiết niệu có thể gây ra đau vùng hông, tiểu gắt, tiểu ra máu...
Trong trường hợp lao kê, lan rộng ra toàn cơ thể, ngoài các triệu chứng ở phổi như kể trên, có thể có các triệu chứng không đặc hiệu khác như nhức đầu, rối loạn thị giác, đau khớp, sưng hạch, nổi ban dưới da, đau bụng...
Bệnh thường diễn tiến ra sao?
Như đã nói, ở một số người khoẻ mạnh, hệ miễn nhiễm của cơ thể hay bất hoạt vi trùng suốt đời. Xét nghiệm PPD dưới da thường sẽ dương tính suốt đời, nhưng cơ hội vi trùng tái hoạt chỉ có khoảng 10 phần trăm.
Ở những bệnh nhân mà vi trùng lao hoạt diễn (tiên phát hay thứ phát), hay cần phải được chữa trị hai tuần trở lên, họ mới cắt đi khả năng lây bệnh cho người khác. Tuy vậy để chấm dứt hẳn bệnh, tùy theo loại vi trùng có kháng thuốc hay không mà thời gian cần chữa trị sẽ khác nhau. Nếu vi trùng lao không kháng thuốc, thời gian chữa trị thường cần khoảng ít nhất là sáu tháng. Nếu gặp vi trùng kháng nhiều thuốc, thời gian cần điều trị có thể kéo dài đến 24 tháng. Nếu không được chữa trị, hơn phân nữa những bệnh nhân bị lao hoạt động sẽ chết trong vòng năm năm.
Điều trị
Ngày nay, lao là bệnh hầu như hoàn toàn có thể chữa trị được. Bác sĩ nên kết hợp bốn loại thuốc khác nhau trong vòng sáu tháng cho những loại vi trùng chưa kháng thuốc. Một số thuốc chỉ cần dùng trong vòng hai tháng đầu, sau đó những thuốc còn lại sẽ được diễn ra cho đủ ít nhất là sáu tháng. Các chủng vi trùng lao kháng thuốc, đặc biệt là kháng với nhiều thuốc, thường phải cần nhiều thời gian hơn để có thể điều trị khỏi. Các thuốc này lại thường rất mắc tiền, có nhiều tác dụng phụ hơn, và cũng kém hiệu quả hơn các loại thuốc tiêu chuẩn. Thời gian chữa trị có thể cần phải kéo dài đến hai năm.
Trước đây, tất cả loại lao gây ra bởi các chủng vi trùng lao kháng thuốc hầu như không thể chữa được, vì thuốc quá đắt đỏ, trung bình tốn khoảng mười lăm ngàn đô la Mỹ mỗi năm. Gần đây, với sự giúp đỡ của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, thuốc ở các nước đang phát triển có thể được giảm giá chỉ còn khoảng năm phần trăm giá trước đây.
Chú ý trong điều trị
Nếu có các triệu chứng như đã nêu trên, nên đi thăm khám càng sớm càng tốt, vì bệnh sẽ dễ điều trị hơn. Nếu để trễ, phổi đã bị tổn thương nghiêm trọng, sẽ khó phục hồi hoàn toàn, và ta cũng sẽ truyền căn bệnh nguy hiểm này cho người thân của ta cũng như nhiều khác.
Vi trùng kháng thuốc là điều rất nguy hiểm cho ta, người thân của ta, cũng như xã hội. Vì vậy, khi đã được chữa trị, cần phải chặt chẽ tác hợp, nghe theo lời dặn của bác sĩ. Vì vi trùng kháng thuốc không chỉ làm bệnh của chính ta khó chữa hơn, thời gian chữa trị cần kéo dài hơn, tốn kém hơn, mà còn rất nguy hiểm cho xã hội, vì bất cứ ai bị lây chủng vi trùng này cũng hay gặp phải những khó khăn kể trên. Việc kết hợp chặt chẽ với bác sĩ, cũng sẽ giúp cho các tác dụng phụ của thuốc được kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh gây nguy hiểm trên cơ thể của ta.
Phòng ngừa bệnh lao
Ở một số nơi mà bệnh lao còn phổ biến như ở các nước đang phát triển, như Việt Nam, thuốc chủng BCG hay được chủng cho trẻ nhỏ ngay lúc sanh. Tuy nhiên hiệu quả của thuốc này không cao lắm.
Ở các nước đã phát triển như Hoa Kỳ, các nước Tây Âu, nếu thử nghiệm lao dương tính, thường bệnh nhân sẽ được cho uống thuốc ngừa trong ít nhất là chín tháng. Các thuốc này sẽ giúp loại bỏ các vi trùng “nằm vùng” trong cơ thể, và làm giảm khả năng tái hoạt của vi trùng lao.