Tụ cầu hay được gọi là Staphylococcus là vi khuẩn gram dương, sản xuất nhiều độc tố và enzym ngoại bào, trong đó chủng tụ cầu vàng (S. aureus) tạo ra men coagulaza. Vi khuẩn có thể tạo vỏ polyscaccarid chống lại thực bào và dễ lan truyền vào máu gây nhiễm khuẩn huyết. Dạng không có vỏ chủ yếu gây bệnh tại chỗ, nhưng dễ gây sốc nhiễm khuẩn nhất là khi vào máu theo đường tiêm truyền.

dinhduonghoc.com - Viêm phổi do tụ cầu là gì?

Tụ cầu gây viêm phổi.

Có hai con đường để tụ cầu vàng có thể xâm nhập đó là: qua đường hô hấp trên hoặc lây truyền theo đường máu. Thường sau bệnh cảm cúm hoặc ở người suy giảm miễn dịch, tụ cầu theo dịch tiết đường hô hấp trên bị hít vào phổi. Trường hợp thứ hai tụ cầu theo đường máu đến gây viêm phổi. Sau khi bị mụn nhọt ngoài da thì bệnh hay xảy ra, viêm tắc tĩnh mạch, viêm màng trong tim...

Tuy là viêm phổi do tụ cầu ít gặp nhưng là bệnh nhiễm khuẩn này có thể gây nghiêm trọng. Vi khuẩn có thể tạo vỏ polyscaccarid chống lại thực bào. Khi có vỏ bọc, tụ cầu dễ lây nhiễm vào đường máu gây nhiễm khuẩn huyết. Dạng không có vỏ chủ yếu gây bệnh tại chỗ, nhưng hay gây sốc nhiễm khuẩn nhất là vào máu theo đường tiêm truyền.

Viêm phổi thường có nhiều ổ, tâm ổ viêm là phế quản hoặc tiểu phế quản viêm hoại tử, xuất huyết. Ổ viêm thâm nhiễm bạch cầu hạt trung tính, phù nề, xuất huyết. Các ổ viêm này tràn tạo ra các ổ áp-xe. Ở những ca nặng, thì thành phế nang thường bị phá huỷ. Đặc biệt không khí vào những phế nang bị phá huỷ nhưng không thoát ra được, tạo ra các túi khí thành mỏng (pneumatoceles), đây là đặc trưng điển hình của viêm phổi do tụ cầu.

 

Nguyên nhân gây viêm phổi do tụ cầu

Bệnh cúm, sởi, hay gặp ở những người mắc bệnh mãn tính, suy giảm miển dịch là nguyên nhân gây viêm phổi tụ cầu. Bệnh chuyển biến rất nhanh sau nhiễm tụ cầu đường hô hấp trên. Khi đã bị viêm phổi, các bệnh của cúm, sởi thường nặng lên. Triệu chứng phổ biến là sốt cao, mạch nhanh, thở nhanh, ho, ít gặp ho ra máu. Suy hô hấp, sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc hệ thống, khó thở, hoại tử và hình thành ổ áp-xe rất phổ biến. Tràn dịch màng phổi và mủ màng phổi là biến chính hay gặp nhất.

 Các yếu tố gây mắc bệnh là: chất lượng sống kém, sử dụng kháng sinh một cách tùy tiện, bệnh nhân nằm viện lâu ngày. Người ta cho rằng khi một người bị bệnh cúm thì virut cúm làm giảm sức đề kháng của cơ thể tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho tụ cầu xâm nhập vào đường hô hấp, đồng thời chức năng lông chuyển trong việc làm sạch và dọn dẹp tụ cầu sẽ bị giảm.

Nguyên nhân nhiễm tụ cầu lây lan qua đường máu đến phổi là do sự tắcnghẽn mạch bởi những ổ nhiễm khuẩn nội mạch. Thường gặp những trường hợp tắc nghẽn nhiễm khuẩn phổi là viêm màng trong tim bên phải nhất là ở các trường hợp hay tiêm chích, hoặc viêm tĩnh mạch huyết khối nhiễm khuẩn là triệu chứng hay gặp nhất do việc đặt ống thông tĩnh mạch. Cơn đau ngực kiểu viêm màng phổi cấp tính kèm khó thở chính là triệu chứng của bệnh viêm phổi loại này.

 

Cách ngừa viêm phổi do tụ cầu

Có hai con đường mà tụ cầu vàng có thể xâm hại vào phổi: hít vào đường hô hấp trên hoặc truyền nhiễm qua đường máu. Viêm phổi do tụ cầu khuẩn là bệnh nhiễm khuẩn nặng, tỉ lệ tử vong cao.

Những yếu tố nguy cơ gây viêm phổi do tụ cầu

Tụ cầu là vi khuẩn gram dương, tiết lọc ra nhiều độc tố và enzym ngoại bào. Tụ cầu có thể tạo vỏ polyscaccarid chống lại thực bào. Khi có vỏ bao bọc, vi khuẩn dễ xâm nhập vào máu gây nhiễm khuẩn huyết. Dạng vi khuẩn không có vỏ bọc chủ yếu gây bệnh tại chỗ, nhưng khi vào máu theo đường tiêm truyền thì hay gây sốc nhiễm khuẩn.

Có hai đường mà người mắc bệnh dễ mắc phải là: một là hít tụ cầu vào đường hô hấp. Ở trường hợp bệnh nhân bị cúm hoặc miễn dịch suy giảm, tụ cầu theo dịch tiết đường hô hấp trên bị hút vào phổi. Hai là tụ cầu theo đường máu đến phổi từ ổ nhiễm khuẩn ngoài phổi. Theo cơ chế này, mụn nhọt ngoài da, do tiêm chích ma túy, bệnh nhân lọc máu, đặt dụng cụ nội mạch bị nhiễm khuẩn, viêm tắc tĩnh mạch, viêm màng trong tim vùng van ba lá là nguyên nhân chính gây viêm phổi có nhiều ổ, bệnh thường xảy ra.

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy: do điều kiện sống kém, vệ sinh cá nhân kém cùng việc sử dụng kháng sinh một cach tùy tiện và nằm viện lâu ngày tạo điều kiện  thuận lợi cho sự xâm nhập của tụ cầu gây viêm phổi. Thói quen tự mua kháng sinh để điều trị, không theo chỉ định của bác sĩ vừa không đúng liều lượng, vừa không có hiệu lực với tụ cầu làm cho tụ cầu dẫn đến lờn thuốc.

Dấu hiệu phát hiện bệnh

Bệnh nhân thường trong tình trạng như bệnh cúm, sau vài ngày thấy sốt cao, thở khó khăn, ho dữ dội, sức khỏe suy kiệt nhanh chóng và vô tri vô giác. Các triệu chứng hay gặp là: tức ngực, nhiễm độc, khó thở, hoại tử và hình thành ổ áp-xe. Biến chứng hay gặp nhất làm bệnh tăng nặng thêm đó là tụ mủ màng phổi. Bệnh thường kèm theo triệu chứng viêm họng dịch rỉ, xuất hiện cùng với nổi ban dạng tinh hồng nhiệt và hậu quả là gây toàn thân bị nhiễm độc.

Một  bệnh nữa là viêm phổi tụ cầu thường liên quan đến dịch cúm, sởi, hay gặp ở người mắc bệnh mạn tính, chức năng miễn dịch suy giảm, là bệnh gây tỉ lệ tử vong cao nhất do viêm phổi ở bệnh nhân đặt nội khí quản. Triệu chứng phụ thuộc vào tuổi tác và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Sau nhiễm tụ cầu đường hô hấp trên dẫn đến viêm phổi xảy ra nhanh. Khi biến chứng viêm phổi, triệu chứng của cúm, sởi thường nặng lên. Dấu hiệu thường gặp là sốt cao, mạch nhanh, thở nhanh, ho. Khám thấy rì rào phế nang giảm và nhiều ổ ran nổ. Có thể gặp suy hô hấp, sốc nhiễm khuẩn. Tràn dịch màng phổi là biến chứng hay gặp  và biến chứng mủ màng phổi. Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết khoảng 20% các ca bệnh.

Xét nghiệm đờm thấy tụ cầu khuẩn. Chụp Xquang phổi bắt gặp hình ảnh nhiều ổ viêm phổi dạng tròn, kích thước không đều, không đối xứng hai bên phổi. Phân lập được tụ cầu ở máu, đờm, dịch màng phổi…

Lưu ý trong điều trị và phòng bệnh

Viêm phổi tụ cầu là một bệnh nặng, tỷ lệ tử vong cao. Điều trị đòi hỏi sức khỏe diễn ra tích cực và dùng kháng sinh có hiệu lực với vi khuẩn.  Hiện nay, do tụ cầu thường kháng với thuốc penicilin do chúng sinh ra men penixilinaza. Vì thế muốn diệt tụ cầu thỉ phải dùng các thuốc kháng sinh phải chống lại được men này. Tốt nhất là sử dụng thuốc theo kháng sinh đồ. Các thuốc thường được dùng là: cephalosporin thế hệ thứ 3. Thời gian dùng kháng sinh thường kéo dài 4 tuần. Trường hợp nặng có thể dùng thuốc imipenem, gentamyxin, nhất là khi có nhiễm khuẩn huyết. 

Do việc điều trị không thuận lợi, có nhiều biến chứng nguy hiểm đến sức khỏe nên việc phòng bệnh viêm phổi do tụ cầu trở nên hết sức quan trọng và có ý nghĩa bảo vệ sức khỏe cho mọi người. Phòng bệnh với các biện pháp sau đây: cầm mang khẩu trang  khi chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện, hoặc vào viện thăm người bệnh để tránh hít phải vi khuẩn nói chung và tụ cầu. Những người bị cúm hoặc bị suy giảm chức năng miễn dịch cũng thường xuyên đeo khẩu trang để tránh bị lây bệnh do tụ cầu và các bệnh khác.

Giữ vệ sinh da bằng cách tắm rửa hằng ngày, giữ vệ sinh cá nhân. Điều trị triệt để các bệnh nhiễm khuẩn da như mụn nhọt, vết thương. Các bệnh là nguyên nhân có thể dẫn đến viêm phổi do tụ cầu như viêm tắc tĩnh mạch, viêm màng trong tim… cũng phải chữa tích cực. Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và tập thể dục thể thao thường xuyên  để nâng cao sức đề kháng. Chỉ dùng kháng sinh khi có đơn thuốc và sự chỉ dẫn của bác sĩ, tuyệt đối không tự mua thuốc kháng sinh uống để hạn chế việc tụ cầu kháng thuốc.

 

Chế tạo thành công vacxin chống tụ cầu vàng

Vacxin được hãng Nabi sản xuất có thể giảm đến 57% nguy cơ nhiễm tụ cầu vàng trên các bệnh nhân chạy thận nhân tạo.

Đó là kết quả được đưa ra của các nhà khoa học tại Viện Sức khỏe Trẻ em và Phát triển nhân lực Quốc gia Mỹ (NICHD), được phát hành trên Tạp chí Y khoa Anh.

Vi khuẩn tụ cầu vàng nổi tiếng vì chúng có khả năng kháng thuốc. Những con vi khuần này là nguyên nhân chính gây nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện. Bệnh nhân chạy thận nhân tạo là nhóm có nguy cơ lây nhiễm tụ cầu vàng cao nhất và cũng là nhóm thích ứng kém nhất với tiêm chủng phòng ngừa bệnh vì họ đang ở trong tình trạng ức chế miễn dịch.

Các nhà khoa học cho biết, có thể vacxin này sẽ hiệu quả hơn ở những người có nguy cơ nhiễm tụ cầu vàng nhưng bị ức chế hệ miễn dịch ít, như các bệnh nhân mổ tim hoặc phải phẫu thuật nói chung. Để tăng cường hiệu quả của vacxin, các nhà khoa học dự định tiến hành tiêm lặp lại một lần sau mũi đầu tiên 12 tháng.

Tại Mỹ, với tỷ lệ tử vong lên đến 10-25% thì có tới 2 triệu bệnh nhân nhiễm vi khuẩn trong khi nằm viện mỗi năm, trong đó tụ cầu vàng là nguyên nhân hay gặp nhất. Tụ cầu vàng cũng là một mối đe dọa chính của các ca sốc nhiễm trùng. Nó có thể gây nhiều bệnh ngoài da (mụn, chín mé...), thậm chí cả nhiễm trùng huyết, viêm tim, viêm phổi... Nếu được áp dụng một cách rộng rãi, vacxin chống tụ cầu vàng sẽ giúp làm giảm đáng kể các bệnh lý nói trên.