Sinh Lý - Giang mai là gì?
Giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn, lây truyền chủ yếu qua đường tình dục nhưng có thể lây qua đường máu, đường mẹ sang con và đường tiếp xúc trực tiếp với các thương tổn giang mai có loét. Bệnh diễn biến nhiều năm (10, 20, 30) năm có khi cả đời, có lúc rầm rộ, có những thời kỳ ngấm ngầm không có triệu chứng gì làm cho người bệnh lầm tưởng là đã khỏi và thể lây truyền cho thế hệ sau.
Nếu không được điều trị bệnh có thể xâm nhập vào tới cả các phủ tạng đặc biệt là da, tim mạch, thần kinh trung ương gây nhiều biến chứng rất nặng, có nhiều hình thái lâm sàng khác nhau nên chẩn đoán cũng rất khó khăn.
Bệnh ảnh hưởng tới sức khoẻ bệnh nhân thậm chí gây tử vong hoặc tàn phế suốt đời nếu không được điều trị kịp thời. Nó ảnh hưởng sâu sắc sức khoẻ và sự phát triển nòi giống của dân tộc.
Ở Châu Âu người ta cho rằng bệnh lan truyền do Christopho Colombo cùng 44 thuỷ thủ mang bệnh từ Haiti về Tây Ban Nha và sau do bệnh lan thành dịch ở Châu Âu vào đầu thế kỷ 16.
Ở Việt Nam bệnh xuất hiện thời kỳ nào cũng cha xác định rõ. Có thuyết cho rằng bệnh có từ lúc lính của Gia Long viễn chinh sang Xiêm La (Thái Lan) mang bệnh về (thế kỷ 18) vì vậy mới có tên là bệnh tiêm la.
Sự thực bệnh giang mai có từ đời thượng cổ vì trong tài liệu của Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp ngời ta đã mô tả những thương tổn ở xương nguười giống hệt căn bệnh giang mai.
Gần đây người ta cho bệnh giang mai là một trong nhóm bệnh xoắn khuẩn gây nên:
Bệnh Pian (ghẻ cóc): nguyên nhân do T.Pertenu . Bệnh này gặp ở Tây Nguyên- Việt Nam và vùng Trung Mỹ nh Mehico...
Bệnh Pinta ( tiếng Bồ Đào Nha Maldel Pinta có nghĩa là vẽ màu, vì bệnh này để lại các vết màu xanh). Nguyên nhân gây bệnh do T.carateum. Bệnh này gặp ở Nam Mỹ nh Braxin, Achentina...
Bệnh giang mai gây nên do T.Pallidum . Bệnh này gặp ở tất cả các nước trên thế giới.
Nguồn bệnh và đường lây của bệnh giang mai
Mầm bệnh
Bệnh giang mai gây nên do xoắn khuẩn nhạt (Treponema pallidum) do Schaudinn vàHoffmann phát hiện ra năm 1905. Đây là 1 loại xoắn khuẩn hình lò xo có 6 - 10 vòng xoắn, đường kính ngang không quá 0,5µ, dài 6 - 15µ. Xoắn khuẩn có thể có 3 loại di động:
Di động theo trục dọc kiểu vặn đinh ốc.
Di động qua lại như một quả lắc đồng hồ.
Di động lợn sóng.
Ở môi trường ẩm ớt cả 3 loại di động này có thể tồn tại và kéo dài đến 2 ngày .
Xoắn khuẩn giang mai là 1 loại vi khuẩn yếu, ra ngoài cơ thể nó không sống quá được vài tiếng đồng hồ, nó chết nhanh chóng ở nơi khô, ở nơi ẩm ớt nó sống dai dẳng hơn. ở trong nước đá và độ lạnh - 20ºC nó vẫn di động được rất lâu.
ở 45ºC nó bị bất động và có thể sống được 30 phút.
Xà phòng có thể giết được xoắn khuẩn sau vài phút.
Xoắn khuẩn vào cơ thể qua chỗ da và niêm mạc bị xây xát thường là do tiếp xúc trực tiếp do giao hợp,đường sinh dục,đường hậu môn hay đường miệng. Từ đó xoắn khuẩn đi vào hạch và 1 vài giờ sau nó đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể.
Nguồn bệnh và đường lây
Những năm gần đây bệnh giang mai đã tăng ở nhiều nước. Bệnh tăng rõ rệt ở các nước nhiệt đới và các nước phát triển.
Hình thái lâm sàng có khác nhau tuỳ theo giống người. Thí dụ: ở người da đen thường hay có biểu hiện viêm nhiều hạch trong giang mai sớm hoặc hay có sẩn hình nhẫn, mụn mủ, viêm xương khớp, viêm mống mắt hoặc trong giang mai muộn thì hay gặp biến chứng tim mạch. Ngược lại giang mai thần kinh, (tabes) liệt toàn thân lại rất hiếm gặp ở người da đen.
Ở Việt Nam trước năm 1945 và trong thời kỳ Pháp tạm chiếm cho đến năm 1954, bệnh giang mai đứng hàng thứ 2 sau lậu. Phần nhiều bệnh nhân tự chữa hoặc đến thầy thuốc t nhân nên số liệu không chính xác.
Từ 1956-1964 ở Miền Bắc giải phóng, đời sống ổn định, ở các nhóm có nguy cơ cao được kiểm tra. Đã phát hiện trong những năm đầu là 1000-1500 ca/năm. Tỷ lệ so với dân số là 0,1/1000.
Số lượng giảm dần, cho đến 1963 - 1964 mỗi năm chỉ phát hiện khoảng 20 ca (tỷ lệ so với dân số lúc đó là 0,01/1000). Bệnh giang mai cũng nh các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác đã giảm 10 lần so với năm 1954.
Từ 1965-1975 là thời kỳ chiến tranh, trật tự và nếp sống bị đảo lộn, tâm lý sinh hoạt không bình thường, y tế khó khăn, các bệnh hoa liễu tăng lên ở miền Bắc và đặc biệt đến năm 1975 khi đất nước được thống nhất, số người bị mắc bệnh giang mai đã lên tới 160.000 ca, tỷ lệ là 5/1000 (so với tổng số dân lúc đó là 45 triệu).
Số gái mãi dâm tăng, ở thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30.000 ngời (64% trong số này có thử nghiệm huyết thanh + ).
Tỷ lệ giang mai bẩm sinh: 1,25%.
Tỷ lệ sản phụ bị giang mai: 4,5%.
Từ 1975 đến 1990, mỗi năm ngành da liễu điều trị cho khoảng 10-20.000 bệnh nhân giang mai.
Số liệu này còn có thể nhiều hơn vì bệnh nhân tự chữa hoặc chữa t không đến các cơ sở y tế của nhà nớc để có số liệu thống kê chính xác.
Theo điều tra của Bùi Kim Ân 1977. Tỷ lệ mắc bệnh giang mai trên gái mãi dâm ở khu vực Hà Nội là 18,8% trên các đối tượng có hành vi nguy cơ cao (nhân viên massage có tỷ lệ tương ứng là 1,8%). Tỷ lệ phản ứng huyết thanh giang mai dơng tính là 1%, qua điều tra trên 1600 mẫu máu của các đối tượng đến khám tại phòng khám chuyên khoa da liễu.
Nguồn bệnh: là người mắc bệnh giang mai kể cả giang mai kín, giang mai.
Giai đoạn 3: Ngoài ra không có nguồn nào khác nh từ động vật hoặc côn trùng.
Đường lây truyền: là đường trực tiếp tiếp xúc giữa người bệnh và người lành hoặc gián tiếp qua đồ vật. Ta có thể khái quát có 3 đường chính sau:
Lây truyền qua đường tình dục.
Lây truyền qua đường máu(tiêm truyền máu hoặc tiêm chích ma tuý mà bơm tiêm không vô khuẩn).
Truyền từ mẹ sang con (qua nhau thai từ tháng thứ 4 trở đi).
Phòng bệnh giang mai
Phòng chống trong cộng đồng:
Hợp tác nhiều ngành để giáo dục nam nữ thanh niên sống lành mạnh - Bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Phòng ngừa thái hoá truỵ lạc.
Chống nạn mãi dâm gái điếm.
Cải tạo gái điếm.
Xây dựng qui chế cới xin (cần kiểm tra sức khoẻ trước khi cho đăng ký kết hôn).
Giáo dục y tế về bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Xây dựng mạng lới y tế từ trung ương đến phường xã chú trọng các thành phố, đô thị, hải cảng.
Tổ chức lồng ghép các hoạt động phòng chống bệnh vào hoạt động của mạng lưới đa khoa.
Điều trị bệnh Giang mai
Từ khi có penicilline đến nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đều sử dụng penicilline vì những lợi thế của thuốc này đối với xoắn khuẩn. Vì dựa vào sự hiểu biết của các yếu tố sau:
Cơ cấu của xoắn khuẩn giang mai.
Sự tổng hợp lớp vỏ của xoắn khuẩn trong quá trình trưởng thành và phân chia.
Cơ chế tác dụng của penicilline đối với cơ cấu và quá trình trưởng thành và phân chia của xoắn khuẩn.
Chu kỳ sinh sản của xoắn khuẩn.
Sự nhạy cảm của xoắn khuẩn.
Hoạt động dược lý động học của penicilline trong cơ thể bệnh nhân.
Penicilline có tác dụng đói với xoắn khuẩn bằng cách ức chế men transpeptidaza trong quá trình sinh sản.
Giang mai mới xoắn khuẩn phát triển nhiều thì tác dụng của penicillin càng tăng.
Giang mai muộm xoắn khuẩn ít phát triển thì tác dụng càng kém vì vậy cần kéo dài thời gian điều trị.
Nồng độ có tác dụng là 0,07-0,2 UI trong 1 ml huyết thanh và giữ đều đặn từ 15 -30 ngày vì xoắn khuẩn sinh sản 33 giờ 1 lần,sẽ bắt gặp dợc 10 - 22 lần sinh sản.
Tất cả các loại Penicilline G đều có tác dụng.
Để gữi nồng độ thường xuyên kéo dài, người ta hay dùng các loại penicillin chậm tiêu như Benzathine penicilline hoà tan trong nước (Bicilline, Extencilline, Pendura, Pennadura) hoặc loại hoà tan trong dầu nh BOM (Benzathine penicilline in araehide oil, alumine monosteard). Khi tiêm 2,4 triệu Benzathine penicilline có thể giữ được nồng độ diệt khuẩn 0,03đv/1ml huyết thanh trong vòng 3-4 tuần.
Có thể dùng penicilline procaine in arachide oil +2%monodarate d’Alumine (PAM) nhưng chỉ lu lại trong máu 3-4 ngày. Nếu dùng fenacilline A của CHDC Đức (Penicilline procaine + 25% Penicilline sodique thì nồng độ P cao hơn trong máu nhưng chỉ kéo dài được 12 giờ vì vậy phải tiêm ngày 2 lần mỗi lần 500.000 đơn vị.
Nếu dùng Benzyl penicilline tinh thể hoà tan trong nước thì sau 20 phút có thể đã thải ra ngoài 50% số lượng vì vậy phải tiêm cách 2- 3 giờ 1 phát thì tác dụng mới tốt.