Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức khỏe. Béo phì là tình trạng sức khỏe có nguyên nhân dinh dưỡng.

dinhduonghoc.com - Béo phì được hiểu như thế nào?

Thường thường một người trưởng thành khỏe mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của họ dao động trong giới hạn nhất định. "Cân nặng nên có" của mỗi người thường ở vào độ tuổi 25-30. Hiện nay, Tổ chức y tế thế giới thườg dùng chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index - BMI) để nhận định tình trạng gầy béo.

Người bị béo phì ngoài thân hình phì nộn, nặng nề, khó coi... còn có nguy cơ mắc nhiều bệnh như rối loạn lipit máu, tăng huyết áp, sỏi mật, đái tháo đường, xương khớp... và ung thư.

Hiện nay tình hình thừa cân và béo phì đang tǎng lên với tốc độ báo động không những ở các quốc gia phát triển mà ở cả các quốc gia đang phát triển. Đây thật sự là mối đe dọa tiềm ẩn trong tương lai. Tại các nước đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp nhiều ở thành phố hơn ở nông thôn. Ở Việt Nam tỷ lệ thừa cân và béo phì khoảng 4% ở Hà Nội (1995) và Thành phố Hồ Chí Minh (2000); 10,7% ở lứa tuổi 15-49 và 21,9% ở lứa tuổi 40-49. Tỷ lệ béo phì ở trẻ học sinh tiểu học Hà Nội là 4,2% (1996) và 12,2% ở Thành phố Hồ Chí Minh (1997).

 

Béo phì là gì?

Để có chỉ số khối cơ thể (BMI), người ta dùng công thức sau đây: BMI = W/(H)2, trong đó: W = Cân nặng (kg), H = Chiều cao (m).

Chỉ số BMI bình thường nên có ở giới hạn 20-25, trên 25 là thừa cân và trên 30 là béo phì. Đó là chỉ số dành cho người châu Âu và châu Mỹ. Đối với người châu Á, BMI bình thường có giới hạn từ 18.5-23.

Một điều cần chú ý nữa là vùng chất mỡ tập trung. Mỡ tập trung nhiều quanh vùng eo lưng tạo nên dáng người "quả táo tàu" thường được gọi là béo kiểu "trung tâm", kiểu phần trên hay béo kiểu dáng đàn ông và mỡ tập trung ở phần háng tạo nên vóc người "hình quả lê" hay còn gọi là béo phần thấp hay kiểu dáng đàn bà. Vì vậy bên cạnh theo dõi chỉ số BMI nên theo dõi thêm tỷ số vòng bụng/vòng mông, khi tỉ số này vượt quá 0,9 ở nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tǎng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái đường đều tǎng lên rõ rệt.

Béo phì không tốt đối với sức khoẻ, người các béo các nguy cơ càng nhiều. Trước hết, người béo phì dễ mắc các bệnh tǎng huyết áp, bệnh tim mạch do mạch vành, đái đường hay bị các rối loại dạ dày, ruột, sỏi mật.

 

Tác hại và nguy cơ của béo phì

Người béo phì thường có cảm giác khó chịu về mùa hè do lớp mỡ dày như một hệ thống cách nhiệt. Người béo phì cũng thường xuyên cảm thấy mệt mỏi chung toàn thân, hay nhức đầu, tê buốt ở hai chân làm cho cuộc sống thiếu thoải mái.

 

- Mất thoải mái trong cuộc sống

Người béo phì thường có cảm giác khó chịu về mùa hè do lớp mỡ dày như một hệ thống cách nhiệt. Người béo phì cũng thường xuyên cảm thấy mệt mỏi chung toàn thân, hay nhức đầu, tê buốt ở hai chân làm cho cuộc sống thiếu thoải mái.

- Giảm hiệu suất lao động

Người béo phì làm việc chóng mệt nhất là ở môi trường nóng. Mặt khác do khối lượng cơ thể quá nạng nề nên để hoàn thành một động tác, một công việc trong lao động, người béo phì mất nhiều thì giờ hơn và mất nhiều công sức hơn. Hậu quả là hiệu suất lao động giảm rõ rệt hơn so với người thường.

- Kém lanh lợi

Người béo phì thường phản ứng chậm chạp hơn người bình thường trong sinh hoạt cũng như trong lao động. Hậu quả là rất dễ bị tai nạn xe cộ cũng như tai nạn lao động.

- Hai nguy cơ rõ rệt ở người béo phì

+ Tỷ lệ bệnh tật cao: Béo phì là một trong các yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mãn tính không lây như bệnh mạch vành, đái đường không phụ thuộc insulin, sỏi mật. Ở phụ nữ mãn kinh, các nguy cơ ung thư túi mật, ung thư vú và tử cung tǎng lên ở những người béo phì, còn ở nam giới béo phì, bệnh ung thư thận và tuyến tiền liệt hay gặp hơn.

+ Tỷ lệ tử vong cũng cao hơn, nhất là trong các bệnh kể trên.
Thừa cân và béo phì còn làm giảm vẻ đẹp của mọi người.

 

Nguyên nhân gây béo phì

Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằng giữa nǎng lượng do thức ǎn cung cấp và nǎng lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động khác của cơ thể. Cân nặng cơ thể tǎng lên có thể do chế độ ǎn dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao nǎng lượng.
 
Khi vào cơ thể, các chất protein, lipid, gluxit đều có thể chuyển thành chất béo dự trữ. Vì vậy, không nên coi ǎn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây béo mà ǎn quá thừa chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Tóm lại có thể chia nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh của béo phì như sau:

- Khẩu phần ǎn và thói quen ǎn uống

Nǎng lượng (calorie) đưa vào cơ thể qua thức ǎn thức uống được hấp thu và được oxy hoá để tạo thành nhiệt lượng. Nǎng lượng ǎn quá nhu cầu sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ.

Chế độ ǎn giàu chất béo (lipid) hoặc đậm độ nhiệt độ cao có liên quan chặt chẽ với gia tǎng tỉ lệ béo phì. Các thức ǎn giàu chất béo thường ngon ngên người ta ǎn quá thừa mà không biết. Vì vậy, khẩu phần nhiều mỡ, dù số lượng nhỏ cũng có thể gây thừa calorie và tǎng cân. Không chỉ ǎn nhiều mỡ, thịt mà ǎn nhiều chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo.

Việc thích ǎn nhiều đường, ǎn nhiều món sào, rán, những thức ǎn nhanh nấu sẵn và miễn cưỡng ǎn rau quả là một đặc trưng của trẻ béo phì. Thói quen ǎn nhiều vào bữa tối cũng là một điểm khác nhau giữa người béo và không béo.

- Hoạt động thể lực kém

Cùng với yếu tố ǎn uống, sự gia tǎng tỉ lệ béo phì đi song song với sự giảm hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian dánh cho xem tivi, đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyện qua điện thoại nhiều hơn.

Kiểu sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng trong béo phì. Những người hoạt động thể lực nhiều thường ǎn thức ǎn giàu nǎng lượng, khi họ thay đổi lối sống, hoạt động nhưng vẫn giữ thói quen ǎn nhiều cho nên bị béo. Điều này giải thích béo ở tuổi trung niên, hiện tượng béo phì ở các vận động viên sau khi giải nghệ và công nhân lao động chân tay có xu hướng béo phì khi về hưu.

- Yếu tố di truyền

Đáp ứng sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền có vai trò nhất định đối với những trẻ béo phì thường có cha mẹ béo, tuy vậy nhìn trên đá số cộng đồng yếu tố này không lớn.

- Yếu tố kinh tế xã hội

Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng lớp nghèo thường thấp (thiếu ǎn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó khǎn) và béo phì thường được cọi là một đặc điểm của giàu có. Ở các nước đã phát triển khi thiếu ǎn không còn phổ biến nữa thì tỉ lệ béo phì lại thường cao ở tầng lớp nghèo, ít học so với ở các tầng lớp trên.

Ở nhiều nước, tỷ lệ người béo lên tới 30-40%, nhất là ở độ tuổi trung niên và chống béo phì trở thành một mục tiêu sức khoẻ cộng đồng quan trọng. Ở Việt Nam, tỷ lệ người béo còn thấp nhưng có khuynh hướng gia tǎng nhanh nhất là ở các đô thị. Đó là điều cần được chú ý để có các can thiệp kịp thời.

Thực hiện một chế độ ǎn uống hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì cân bặng ổn định ở người trưởng thành, đó là nguyên tắc cần thiết để tránh béo phì. Các biện pháp cụ thể là:

+ Chế độ ǎn nǎng lượng (calorie) thấp, cân đối, ít đói, ít đường, đủ đạm, vitamin, nhiều rau quả.

+ Luyện tập ở môi trường thoáng.

+ Xây dựng nếp sống nǎng động, tǎng cường hoạt động thể lực.
 

Chế độ ăn và điều trị cho người bị béo phì

Giảm nǎng lượng của khẩu phần ǎn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng 300 kcal so với khẩu phần ǎn trước đó cho đến khi đạt nǎng lượng tương ứng đến mức BMI.


- BMI từ 25-29,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1500 kcal

- BMI từ 30-34,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1200 kcal

- BMI từ 35-39,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1000 kcal

- BMI ≥ 40 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 800 kcal

Trong đó tỉ lệ nǎng lượng giữa các chất là 15-16% protein, 12-13% lipid, 71-72% glucid.

+ Ăn ít chất béo, bột

+ Đủ chất đạm, vitamin, muối khoáng. Cần bổ sung viên đa vitamin và vi lượng tổng hợp

+ Tǎng cường rau và hoa quả

+ Muối, mì chính: 6 g/ngày; nếu có tǎng huyết áp thì chỉ cho 2-4 g/ngày

+ Tạo thói quen ǎn uống theo đúng chế độ

 

Điều trị béo phì

Hội nội tiết đã phát hành những hướng dẩn thực hành để điều trị và dự phòng béo phì trẻ em và đã xuất bản trên mạng tháng 9/2008 của tạp chí Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism. Những hướng dẩn này được tài trợ bởi hội nội tiết Nhi khoa Lawson Wilkins.

Các Ủy ban và các thành viên của Hội nội tiết và Hội nội tiết Nhi khoa Lawson Wilkins đã xem xét và góp ý vào những bản thảo ban đầu được phát triển qua hai cuộc thảo luận nhóm, nhiều hội nghị và những thông tin email giúp đạt đến những ý kiến thống nhất.

Những khuyến cáo được trình bày trong các hướng dẩn như sau:

- Thừa cân được định nghĩa khi chỉ số khối cơ thể (BMI) ≥ 85th percentile nhưng nhỏ hơn 95th percentile và béo phì khi BMI ≥ 95% percentile.

- Các xét nghiệm nội tiết không nên được tiến hành thường quy trừ khi tốc độ phát triển chiều cao bị giảm hoặc không phù hợp so với nền tảng gia đình hoặc tình trạng dậy thì.

- Nếu có chứng cứ của một hội chứng di truyền, chỉ định chuyển bệnh nhân đến bác sỹ di truyền.

- Các trẻ em có BMI ≥ 85th percentile cần phải được đánh giá các bệnh kèm theo có liên quan đến béo phì.

- Điều kiện tiên quyết cho bất kỳ phương pháp điều trị nào, cần chỉ định và hổ trợ sự thay đổi lối sống một cách tích cực, bao gồm chế độ ăn, hoạt động thể lực và các yếu tố hành vi.

- Những khuyến cáo chế độ ăn bao gồm tránh tiêu thụ các thức ăn nghèo dinh dưỡng, giàu calorie (ví dụ: các đồ uống ngọt, hầu hết các “thức ăn nhanh” và các loại bánh snack giàu calorie); kiểm soát năng lượng nhập vào thông qua kiểm soát khẩu phần ăn theo các Hướng dẩn của Viện Hàn lâm Nhi Khoa Hoa Kỳ; giảm ăn các chất béo bão hòa cho các trẻ lớn hơn 2 tuổi; tăng chế độ ăn có nhiều chất xơ, trái cây và rau; ăn đúng giờ, các bữa ăn thông thường, đặc biệt là bữa điểm tâm và tránh ăn liên tục (như bò gặm cỏ), nhất là sau khi tan trường.

Các khuyến cáo đưa ra những hướng dẩn như sau:

- Điều trị bằng thuốc, cùng với việc thay đổi lối sống, nên được xem xét ở những trẻ béo phì chỉ khi chương trình chính thức thay đổi lối sống không có hiệu quả và cho các trẻ thừa cân nếu các bệnh kèm theo kéo dài mặc dù thay đổi lối sống tích cực, đặc biệt đối với những trẻ có tiền sử gia đình rõ rệt đái tháo đường type 2 hoặc có bệnh tim mạch sớm.

- Điều trị bằng thuốc chỉ được chỉ định bởi các bác sỹ có kinh nghiệm trong việc sử dụng các thuốc chống béo phì, hiểu rõ các nguy cơ tác dụng phụ.

- Các chọn lựa sử dụng thuốc có thể bao gồm Sibutramine (hiện chưa được FDA Hoa kỳ chấp thuận) cho trẻ em nhỏ hơn 16 tuổi; Orlistat (hiện chưa được FDA Hoa kỳ chấp thuận) cho trẻ em nhỏ hơn 12 tuổi; Metformin, (hiện chứa được FDA Hoa kỳ chấp thuận điều trị béo phì nhưng đã được chấp thuận điều trị cho bệnh nhân trên 10 tuổi bị đái tháo đường Type 2); Otreotide (hiện chưa được FDA Hoa kỳ chấp thuận điều trị béo phì); Leptin (hiện chưa được FDA Hoa kỳ chấp thuận) và Hormone tăng trưởng (hiện chưa được FDA Hoa kỳ chấp thuận điều trị béo phì).

- Phẫu thuật béo phì được đề nghị cho trẻ vị thành niên có BMI lớn hơn 50 kg/m2 hoặc lớn hơn 40 kg/m2 khi sự thay đổi lối sống và/hoặc điều trị bằng thuốc không thành công và ở những bệnh nhân có bệnh kèm theo nặng.

- Các bệnh nhân cần phẫu thuật, cũng như gia đình, phải ổn định về tâm lý và có thể tuân theo sự thay đổi lối sống. Các bệnh nhân đang được xem xét phẫu thuật béo phì, hướng dẩn ủy nhiệm chuyển đến cho các phẫu thuật viên có kinh nghiêm và đội ngũ đa khoa chuyên nghiệp để đánh giá những lợi ích và những nguy cơ của phẫu thuật.

- Phẫu thuật béo phì không được khuyến cáo cho trẻ em trước tuổi vị thành niên; cho người vị thành niên đang mang thai hoặc đang cho con bú; cho những người dự định có mang trong vòng 2 năm sau phẫu thuật; cho những bệnh nhân không thể tuân theo các nguyên tắc chế độ dinh dưỡng sức khỏe và các thói quen hoạt động; cho bất kỳ bệnh nhân nào bị rối loạn ăn uống chưa được giải quyết, rối loạn tâm thần chưa được điều trị hoặc bị hội chứng Prader-Willi.

- Để giúp dự phòng béo phì, bác sỹ nên khuyến cáo rằng trẻ em phải được bú sữa mẹ hoàn toàn ít nhất 6 tháng và các trường học phải cho trẻ tập thể dục hàng ngày từ vừa phải đến tích cực.

- Bác sỹ nên giáo dục trẻ em và bố mẹ về dinh dưỡng khỏe mạnh và các thói quen hoạt động; chủ trương hạn chế tính sẵn có của việc chọn thức ăn không khỏe mạnh ở trường học; cấm quảng cáo khuyến mãi sự chọn lựa thức ăn không khỏe mạnh cho trẻ em và thiết kế những cộng đồng giúp tối đa các cơ hội để đi bộ và đi xe đạp an toàn đến trường, các hoạt động thể lực và mua sắm ở các vùng lân cận.

Các tác giả của hướng dẩn này viết: ”Mục đích của các can thiệp trẻ em và người vị thành niên béo phì là dự phòng hoặc cải thiện các bệnh có liên quan đến béo phì, ví dụ: không dung nạp glucose và đái tháo đường type 2, hội chứng chuyển hóa, rối loạn chuyển hóa lipid và tăng huyết áp. “Chúng tôi đề nghị rằng điều trị bằng thuốc (kết hợp với thay đổi lối sống) nên được xem xét nếu chương trình thay đổi lối sống tích cực bị thất bại để hạn chế việc tăng cân hoặc để giảm bớt các bệnh kèm theo ở trẻ em béo phì. Thừa cân không nên được điều trị bằng thuốc trừ khi các bệnh kèm theo nặng và đáng kể kéo dài mặc dù thay đổi lối sống tích cực”.