Thai Kỳ - Sau Thai Kỳ - Trong thời kỳ mang thai bị giảm tiểu cầu
Giảm tiểu cầu có thể xuất hiện do 3 nguyên nhân chính: giảm khả năng tạo tiểu cầu ở tủy; tăng sự phá hủy tiểu cầu trong cơ thể; tăng tiêu thụ tiểu cầu khác thường. Bài viết này đề cập đến các hội chứng giảm tiểu cầu hay gặp và hoặc bị nhầm lẫn trong sản khoa.
Đối với trường hợp giảm tiểu cầu bệnh lý, vấn đề được quan tâm nhiều nhất là giảm tiểu cầu do những yếu tố miễn dịch. Phá tiểu cầu do tự miễn có thể thấy ở bệnh: giảm tiểu cầu do tự miễn (ITP - Idiopathic Thrombocytopenic Purpura), bệnh lupus ban đỏ, hội chứng tự miễn kháng phospholipid.
Bệnh ITP mạn tính thường gặp ở các phụ nữ tuổi sinh đẻ, nên cũng có thể thấy ở những phụ nữ mang thai. Thai nhi hay trẻ sơ sinh của các bà mẹ này cũng có khả năng bị giảm tiểu cầu có triệu chứng hay không có triệu chứng vì các kháng thể chống tiểu cầu có thể được truyền qua cơ thể trẻ qua nhau thai.
Cách điều trị thông thường nhất cho các thai phụ bị ITP cũng như các hội chứng giảm tiểu cầu do tự miễn khác là: corticosteroid, truyền tĩnh mạch kháng thể miễn dịch liều cao (intravenous immunoglobulin - IVIG) và cắt lách.
Một hạn chế lớn trong việc điều trị bằng corticosteroid là kết quả xấu phụ nặng nề cho cả bà mẹ và thai nhi như: tăng đường huyết, tăng huyết áp, loãng xương, giảm miễn dịch và dị tật bẩm sinh. Vì thuốc không có khả năng chữa khỏi bệnh nên chỉ dùng khi thật cần thiết để phòng chảy máu.
Truyền IVIG rất đắt đỏ và có thể nâng lượng tiểu cầu tạm thời cho khoảng 75% người bệnh. IVIG có thể gây phản ứng dị ứng phụ mạnh (nhức đầu do viêm màng não phản ứng) và cũng được chỉ định để phòng chảy máu cho những trường hợp khi cần thiết.
Cắt lách được chỉ định cho các thai phụ bị ITP với các biểu hiện chảy máu và nguy cơ chảy máu cao sau khi các cách điều trị khác đã không mang lại kết quả mong muốn. Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng, các phẫu thuật trong thời kỳ mang thai có thể gây tác hại lớn đến cơ thể thai phụ và thai nhi, đặc biệt là: chảy máu nặng, sẩy thai, đẻ non...
Với bệnh lupus ban đỏ và hội chứng kháng thể chống phospholipid (cũng xảy ra ở khoảng 30-40% người bệnh bị lupus ban đỏ), tình trạng giảm tiểu cầu có thể gặp trong khoảng 2% bệnh nhân. Đặc biệt, hội chứng kháng thể chống phospholipid còn có khả năng gây đông máu, tắc mạch máu dẫn tới hoại tử.Cách điều trị giảm tiểu cầu trong các trường hợp này về cơ bản không khác gì với trường hợp ITP ở thai phụ.
Trừ cơ chế miễn dịch, hội chứng giảm tiểu cầu ở thai phụ còn thấy trong các bệnh lý về vi mạch (microangiopathic process) như:
- Hội chứng tan máu (syndrome of homelysis), với những triệu chứng thường thấy như: đau vùng thượng vị, mệt mỏi trầm trọng, buồn nôn, ói mửa, nhức đầu, sốt, tăng huyết áp, phù nề, to gan. Xét nghiệm máu thấy giảm tiểu cầu, tăng bilirubin và tăng AST. Các tổn thương ở thành mạch máu dẫn tới hiện tượng kết tủa của tiểu cầu và ứ đọng của fibrin đã dẫn đến hiện tượng tiêu thụ và phá các tế bào máu.
Hội chứng tan máu có thể dẫn tới một số hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho cả thai phụ và thai nhi như: đông máu rải rác, bong nhau thai, suy thận cấp và suy hô hấp. Tỷ lệ tử vong cho thai phụ có thể lên đến 30% và cho thai nhi gần đến 20%. Điều trị bằng truyền hay thay thế huyết tương (plasma) và asprin liều nhỏ có khả năng làm ổn định sức khỏe của thai phụ và thai nhi, song nên chấm dứt quá trình thai nghén là cách tối ưu nhất nếu bào thai ở tuổi qua 34 tuần hay trong trường hợp có những đe dọa cho tính mạng của thai phụ và thai nhi.
- Hội chứng nhiễm độc thai nghén (toxemia of pregnancy) thường được chia làm hai giai đoạn tiền sản giật và sản giật với những triệu chứng điển hình là: phù nề, tăng đạm niệu và tăng huyết áp. Hiện tượng giảm tiểu cầu sẽ có thể xảy ra cho khoảng 15-20% sản phụ bị nhiễm độc thai nghén.
- Hội chứng TTP (Thrombitic Thrombocytopenic Purpura) với các dấu hiệu: tan máu, giảm tiểu cầu, các rối loạn về thần kinh, sốt và tổn thương ở thận.
- Hội chứng tan máu tăng urê huyết - HUS (Hemolytic Uremic Syndrome) với các triệu chứng điển hình: rối loạn tuần hoàn ngoại vi do huyết khối, giảm tiểu cầu và suy thận cấp.
Với hai hội chứng trên, chữa trị bệnh bằng truyền huyết tương hoặc lọc huyết tương (plasmapheresis) là phương pháp điều trị tối ưu có thể làm giảm tử vong và di chứng cho cả thai phụ và thai nhi.
Ngoài hai nhóm bệnh lý như đã đề cập, một vài rối loạn trong thời kỳ thai nghén như: tắc mạch ối, nhau bong non, vỡ tử cung... có thể dẫn tới hiện tượng vón cục máu rải rác và giảm tiểu cầu. Với những trường hợp này, ngoài các cách điều trị sản khoa thích hợp, việc truyền tiểu cầu có thể cần thiết nếu các nguy cơ chảy máu xuất hiện.
Tóm lại, việc hiểu biết về nguyên do và cơ chế của hiện tượng giảm tiểu cầu trong thời kỳ thai nghén, cả trường hợp sinh lý cũng như bệnh lý sẽ giúp chúng ta chẩn đoán đúng lúc và ứng phó một cách hữu hiệu, hợp lý để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của thai phụ và thai nhi.