Kinh Tạp A Hàm, đoạn ghi chép lại khi Ma na Đề Na trả lời cho tôn giả A Na Luật đã cho chúng ta thấy một phương pháp trị bệnh cụ thể và dễ thực hành. Đó chính là: “Nhờ buộc tâm vào Bốn niệm xứ nên mọi thứ bệnh tật, khổ đau nơi thân thể đều được đình chỉ”.

Phần nói về thuật trị bệnh trong “Tu tập tọa thiền chỉ quán” Trí Khải đại sư cũng nêu rõ: “phép tọa thiền nếu khéo dùng tâm thì 404 bệnh tật tự nhiên lành” hay “Trị bệnh tuy có nhiều phương pháp, nhưng tóm lược lại đều không nằm ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán”.

Vì sao Chỉ và Quán trong tọa thiền lại có thể chữa được bệnh? Liệu các điều trên sẽ có mâu thuẫn gì với lý luận của các nền y học chính thống chăng? Để trả lời được câu hỏi này thì chúng ta sẽ tìm hiểu tác động của tâm lý, cảm xúc cũng như vai trò của hệ thần kinh đối với sức khỏe con người:

Stress là một yếu tố gây bệnh

Ở y học phương Tây, yếu tố tâm lý cũng được xem là một yếu tố gây bệnh, điều này được Cullen đề cập đến trong khoảng năm 1776 với tên gọi là: “rối loạn thần kinh chức năng”. Đến năm 1936, giáo sư Hens Selye, người sáng lập ra viện chống stress ở Montreal, Canada cũng chính thức sử dụng thuật ngữ stress để chỉ ra các phản ứng của cơ thể đối với những yếu tố gây khó chịu ở môi trường sống. Sớm hơn nhiều so với phương Tây, dựa trên cơ sở lý luận về khí và khí hóa, những nhà y học của phương Đông đã sớm nhận biết những ảnh hưởng của cảm xúc tiêu cực sẽ ảnh hưởng lên sức khỏe của con người.

Tư thế ngồi kiết già

Hàng ngàn năm trước, sách Nội kinh, là một quyển sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa đã ghi nhận “bách bệnh giai sinh vu khí”. Người xưa cho rằng những cảm xúc thái quá của các loại tình chí (hỉ, nộ, ái, ố...) sẽ làm rối loạn khí hóa của những tạng phủ tương ứng. Chẳng hạn như “Ưu thương Tỳ”, “Khủng thương Thận”, “Nộ thương Can”…

Vì thế, những rối loạn này chính là tác nhân của những căn bệnh về nội thương. Đôi lúc những rối loạn khí hóa do cảm xúc có thể sẽ gây ra các triệu chứng bệnh lý thấy được ngay. Nếu quan sát một người đang bộc phát cơn tức giận: toàn thân họ sẽ nóng lên, mồ hôi tuôn ra, nhịp tim tăng, hơi thở gấp, những cơ bắp như tăng lên. Với một vài người khác thì cơn nóng giận sẽ làm cho toàn thân ngứa ngáy, áp huyết tăng, đau thắt ở ngực hay như bị bóp chặt vào bao tử.

Thiền là biện pháp đối trị của những chứng bệnh tâm thể

Ở thời đại ngày nay, để tồn tại và phát triển trong một cuộc sống với nhiều thách thức thay đổi chóng mặt, chúng ta phải đối mặt với rất nhiều áp lực tâm lý. Và chính do các yếu tố áp lực tâm lý (stress) này là nguyên nhân của vô số bệnh tật. Stress có thể gây rối loạn tiêu hóa, tim mạch, rối loạn nội tiết, làm suy giảm hệ miễn dịch khiến cơ thể dễ bị tấn công bởi các vi rút, vi khuẩn hay làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đang tiềm tàng.

Trong những trường hợp này, thì việc giải tỏa stress, điều hòa cảm xúc là điều cần phải làm và ưu tiên hàng đầu. Việc thư giãn hoặc căng thẳng, tập trung tư tưởng vào một vấn đề này hoặc chuyển sang một vấn đề khác là khả năng tự nhiên ở mỗi con người, con người có thể kiểm soát được điều đó!

Thiền được đưa vào trường học

Nhưng, ở một vài trường hợp bệnh lý, khi mà hệ thần kinh đã làm việc quá tải, và đã vượt quá giới hạn để tự hồi phục, tự điều chỉnh lại thì người bệnh phải cần một quá trình tập luyện hay điều trị lâu dài. Và thiền chính là một liệu pháp điều trị trực tiếp và hiệu quả.

Mr Herbert Benson, giáo sư Đại học Harvard, người sáng lập Viện Y học Tâm thể ở Boston (Mind – Body Medical Institute) cho rằng: “Từ 60% - 80% lượng bệnh nhân khi đến khám tại những phòng mạch của ông đều có liên quan đến stress. Những ca bệnh này phản ứng rất tệ với thuốc cũng như phẫu thuật nhưng lại rất tốt đối với những liệu pháp tiếp cận tâm thể”. Ông cho rằng những liệu pháp thư giãn, Thiền định sẽ giải tỏa sự căng cơ, giúp bớt lo âu, sợ hãi, bất an, dễ bị kích động và đặc biệt là làm giảm hoạt hóa của các nội tiết tố stress.

Thiền là những cách tập trung tư tưởng, buộc tâm vào một đối tượng nhất định nhằm tạo nên hiệu ứng ức chế và nghỉ ngơi trên toàn não bộ. Stephanie Clement và Cary Barbor, những chuyên gia trong lĩnh vực điều trị tâm lý đã cho biết: “Các thống kê trên những đối tượng chỉ cần thực hiện thiền ngắn hạn (10 phút mỗi lần) nhưng đều đặn mỗi ngày đều cho thấy có sự gia tăng sóng Alpha cũng như việc giảm bớt tình trạng lo âu, trầm uất”. Sóng Alpha là sóng não tương ứng với tình trạng thư giãn cơ bắp và tinh thần thoải mái.

Thiền là những cách tập trung tư tưởng, buộc tâm vào một đối tượng nhất định nhằm tạo ra hiệu ứng ức chế, nghỉ ngơi trên toàn bộ não. 

Vì cơ chế tương tác thần kinh, thể dịch và nội tạng, sự nghỉ ngơi của não bộ sẽ phục hồi tính tự điều chỉnh của hệ thần kinh nên có công dụng cải thiện hết toàn bộ các cơ quan trong cơ thể. Chẳng hạn như ở hệ tim mạch, Cary Barbor cho biết: “Ở những người bình thường, khi chống trả hoặc bỏ chạy một thời gian dài sẽ kích hoạt sự tăng tiết Adrenaline, làm tăng nhịp tim và các nguy cơ máu đông. Ngược lại, việc thư giãn sẽ làm giảm chuyển hóa, giảm nhịp tim, hạ thấp sóng não và giúp cải thiện những triệu chứng của bệnh tim mạch”.

Hiện nay có một phương pháp Thiền đã được chính thức đưa vào giảng dạy và thực hành lâm sàng tại rất nhiều trường đại học y ở phương Tây, kể cả một số trường đại học lớn ở Mỹ như Umass, Stanford, Duke, Virginia, San Francisco... Và MBSR “MindfuIness Based Stress Reduction” (Giảm stress dựa trên sự tỉnh giác) được coi là một liệu pháp giúp điều chỉnh tinh thần, cảm xúc và cải thiện sức khỏe.

Đây là một phương pháp Thiền định nhằm phát triển chánh niệm, tức là khả năng nhận biết điều đang xảy ra nơi bản thân hoặc tâm, từ đó có thể làm chủ được bản thân và điều hòa cảm xúc. MBSR đã được giáo sư Jon Kabat – Zinn khởi xướng và đưa vào thực hành lâm sàng từ đầu những năm 1970.

Hiện nay,Trung tâm Y học và Giáo dục Tỉnh giác CFM (the Center For Mindfulness in Medicine, Healh Care and Society) thuộc trường Đại học Y Massachusetts (UMASS), được coi là cơ sở y tế lớn và lâu đời nhất ở Mỹ trong lĩnh vực quảng bá, giáo dục và điều trị bằng MBSR.

Hiện nay, hàng chục nghìn người đã được hưởng lợi từ chương trình huấn luyện và điều trị này. Kết quả cho thấy, MBSR giúp điều trị các bệnh về tim mạch, chứng đau nhức mãn tính, rối loạn chức năng, dạ dày ruột, chứng đau nửa đầu, cao huyết áp, mất ngủ, lo âu, hoảng loạn… Hiện nay, trên thế giới đã có hơn 200 bệnh viện, cơ sở y tế có thực hành điều trị bằng MBSR.

Thiền là một liệu pháp chỉnh thể

Từng triệu chứng, từng bộ phận của cơ thể đều phải được xem xét và điều chỉnh trong mối tương quan chung nhằm mang lại sự cân bằng và hài hòa cho cả tổng thể. Về khái niệm này, với ý nghĩa hòa hợp, hợp nhất giữa những mặt tổ chức trong cơ thể, hợp nhất giữa thân và tâm. Cuối cùng là giữa con người và vũ trụ. Thiền là đỉnh cao của liệu pháp chỉnh thể và cũng là chỗ gặp nhau giữa y học và các nền y học khác của phương Đông.

Những phương pháp ngồi thiền, luyện khí công, tập yoga đều có công dụng thanh lọc, điều chỉnh để chữa bệnh hay cải thiện sức khỏe. Về mặt thần kinh, thông qua liệu pháp thư giãn, Thiền sẽ duy trì trạng thái yên tĩnh của đại não, có thể điều hòa thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh và tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương.

Đó cũng là một cơ chế mang tính chỉnh thế vì sự hài hòa và hoàn thiện của hệ thần kinh sẽ tác động trở lại để điều hoà nội tiết, nội tạng, tái lập tình trạng khí hòa bình thường để phục hồi sức khỏe.

Cũng vì lý do này, các liệu pháp thư giãn và Thiền không những có hiệu quả trên những tâm thể mà còn có thể nâng cao sự miễn dịch và tăng cường lưu thông khí huyết để làm cải thiện cả những cơ quan đã bị tổn thương. Bên cạnh đó, người hành thiền có thể vận dụng hay Chỉ, hay Quán để tạo ra những hiệu quả cụ thể tùy theo chứng trạng.

Với phép Chỉ, căn cứ vào quy luật “thần đâu khí đó”, người tập có thể an tâm vào một vị trí nhất định trong cơ thể để tăng cường khí huyết đến nơi cần thiết. Ví dụ: An tâm vào một chỗ đau để giải tỏa đau nhức, an tâm vào huyệt tố liêu ở chớp mũi để trị áp huyết thấp hoắc an tâm tại huyệt đan điền ở bụng dưới để chữa những chứng căng thẳng tâm lý hoặc âm hư gây ra nhức đầu, khó ngủ, hồi hộp, áp huyết cao.

Có rất nhiều nghiên cứu về hiệu ứng vật lý của những suy nghĩ tích cực. Đáng kể nhất là công trình nghiên cứu của bác sĩ Carl Simonton về điều trị ung thư. Ông hướng dẫn cho bệnh nhân thư giãn và hình dung những bạch cầu của họ là những chiến sĩ “tìm và diệt”. Đội quân dũng mãnh chiến đấu, chiến thắng và mang đi các ung thư đã chết. Công trình nghiên cứu trên 110 bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đã cho kết quả 25% hoàn toàn khỏi bệnh, 30% ung thư ngừng phát triển và ở 10% khác khối ung thư bắt đầu nhỏ dần.

Tóm lại, Thiền có thể chữa bệnh, khổ là một hiện thực. Vấn đề còn lại là ý chí và khả năng tập trung tư tưởng của người bệnh. Điều này còn tùy thuộc vào căn cơ và những điều kiện trợ duyên khác như chế độ ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp…